Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Tu Tâm "chổi Quét"

25 Tháng Ba 202318:28(Xem: 1602)
Pháp Tu Tâm "chổi Quét"
Pháp Tu Tâm "Chổi Quét"

Nguyễn Tường Bách dịch


An Lạc Ở Đâu

Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ). Người anh cảtrí thông minh hiếu học, còn đứa em tên là Chu Lợi lại chậm lụt, không biết đọc, biết viết, tất nhiên không thể làm tròn trách nhiệm người con thuộc một gia đình tu sĩ.

Sau khi người cha mất, hai người con trai gặp một đệ tử của Đức Phật Thích Ca và không bao lâu sau người anh trở thành thành tu sĩ được theo chân đức Phật và được gia nhập giáo hội. Trong lúc đó Chu Lợi cũng lui tới, nhưng chỉ biết giành ăn với chó mèo mà thôi. Người anh lớn hỏi ý kiến Ngài A Nan, thị giả của Đức Phật, rằng liệu một kẻ có trí khôn tệ hại như Chu Lợi có được phép gia nhập tăng già chăng. Tôn giả A Nan nói: “Đem em ngươi lại cho Đức Thế tôn và trực tiếp hỏi ý kiến của Ngài”.

Lúc đầu Chu Lợi không dám lại gặp Đức Phật vì tự thấy không xứng đáng và quá ngu dốt, nhưng nhờ người anh chỉ rằng giáo pháp này lấy lòng từ bi làm chính, nên cuối cùng Chu Lợi mới chịu. Chu Lợi đến gặp Đức Phật một cách sợ sệt. Chỉ nhìn qua, Đức Phật đã thấy ngay tính khiêm tốn và lòng nhân hậu của con người trẻ tuổi này và cho phép Ngài A Nan thu nhận làm môn đồ.

Ba tháng trôi qua, anh chàng Chu Lợi tội nghiệp vẫn không thuộc nổi một câu kinh mà bất cứ kẻ chăn cừu nào cũng thuộc được. Trong lúc đó thì các vị Tăng sĩ trẻ tuổi đã thuộc nằm lòng từng chồng Kinh sách. Chu Lợi thất vọng hỏi ý kiến Ngài A Nan. Ngài A Nan vừa mới giải thích xong thì đã nhận ra rằng Chu Lợi không thể lĩnh hội gì cả, không có câu nói nào nằm lại trong óc chàng.  Tôn giả A Nan tự nhủ: “Người này gia nhập giáo hội để làm gì khi không thể nhớ điều nào trong đầu?”. Ngài A Nan chỉ ban phước cho Chu Lợi và cho chàng nghỉ việc. Chàng thất vọng, ra ngồi khóc ở vườn cam, khóc mãi cho đến khi Đức Phật đi qua. Đức Phật biết ngay những gì vừa xảy ra và khuyến khích Chu Lợi kể lại câu chuyện. Chàng thút thít: "Không hiểu điều gì đã xảy ra với con? Con muốn trở thành đệ tử của Thế tôn và được học pháp của Ngài, thế mà con không nhớ được điều đơn giản nhất. Nghiệp nào làm con không thể hiểu biết được thưa Ngài?”.

Đức Phật giải thích, trong kiếp cuối cùng, chàng là một Bà-la-môn thông thái và là người tự cho mình tài giỏi hơn thiên hạ, chê trách không hết lời những quan điểm của người khác. Quá chủ quan, chàng tự cho mình là đạo sưtruyền bá các quan điểm sai lầm làm nhiều kẻ tầm đạo phải lạc lối. Vì sử dụng sai lạc sức mạnh của tư tưởng, Chu Lợi phải nghiệp báo trở thành kẻ ngu dốt trong kiếp này và bị nhiều người chê bai.

Chu Lợi đáp: "Làm sao con thoát khỏi ách nạn này?”.

Đức Phật trả lời bằng câu kệ:

"Được bậc hiền giả hướng đạo,

Tốt hơn là được kẻ khờ ca tụng.

Ai biết rằng mình còn vô minh dại dột,

Kẻ ấy mới là một hiền giả đích thực.

Ai tưởng mình là một hiền giả, dù không nói ra,

Thì đích thực là một kẻ dại khờ”.

Sau đó, Chu Lợi được Đức Phật đích thân chỉ dạy. Nhằm làm sáng tỏ đầu óc của Chu Lợi, Phật bảo chàng ngồi mỗi ngày đều quét Tinh xá và quét các đường đi xung quanh. Trong công việc đó, chàng chỉ nên nhớ đến hai câu duy nhất: "Phủi bụi, trừ dơ" (Phất trần trừ cấu). Ngoài ra, Chu Lợi phải chùi sạch tất cả giày dép của các vị Tăng sĩ khác. Vừa mới cầm chổi quét, chàng liền quên ngay hai câu kệ. May thay chàng gặp Tôn giả A Nan đang ngồi giữa sân Tinh xá và nhờ nhắc lại hai câu đó. Sau một thời gian dài, Chu Lợi mới thuộc được hai câu này. Vài tháng sau thì chàng thuộc lòng và lúc nào cũng lẩm nhẩm câu này, trong khi tay cứ quét bụi và chùi giày từ đôi này qua đôi khác. Đức Phật để tâm quan sát sự cố gắng của vị tiểu tăng này và có cách làm cho lúc nào Tinh xá cũng đầy bụi và giày dép lúc nào cũng lấm bùn để Chu Lợi có việc làm liên tục từ sáng đến tối.

Với sự cẩn trọng và tha thiết, qua 6 năm Chu Lợi từ từ đi vào chiều sâu của câu nói: "Thế tôn nói bụi là muốn nói bụi ở bên ngoài hay bên trong? Mà bụi ở bên trong là gì? Đó là các phiền não, tham, sân, si, áo, mạn, nghi, tà kiến v.v... Trừ sạch được các bụi dơ đó mới thật là khó, phi người kiên trì và đầy đủ Trí tuệ thì không thanh trừ nổi”. Cứ thế, chàng trở thành người đệ tử chuyên sâu nhất, đồng thời, chàng vẫn miệt mài, chu đáo đi phụng sự các bạn đồng tu.

Ngày nọ, Chu Lợi tung chổi quét bụi, và tâm thức đại định của chàng đã đạt đến mức rất sâu thì một câu kệ của Đức Phật bỗng nhiên bừng sáng, trở thành một câu Kinh đầy ý pháp, một câu chàng không biết và cũng chưa bao giờ nghe:

Tham mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này;

Tham mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng.

Hỡi này các Tỳ khưu,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo pháp

Của vị không bụi bẩn.

 

Sân mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này,

Sân mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng.

Hỡi này các Tỳ khưu,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo pháp

Của vị không bụi bẩn.

 

Si mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này;

Si mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng.

Hỡi này các Tỳ khưu,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo Pháp

Của vị không bụi bẩn.

(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Chu Lợi nghe các lời kệ đó và trực nhận ra rằng cái Tôi giả tạo do ba thứ tham đắm (Tham), giận dữ (Sân) và vô minh (Si) sinh ra. Như một người tỉnh dậy từ một cơn ác mộng, chàng thấy rằng lâu nay mình cứ tự động hòa mình với cái Tôi, cái đó không gì khác hơn là một lớp dơ bẩn mà chàng vừa quét đi. “Rõ như ban ngày, hoàn toàn rõ ràng. Cảm tạ đức Thế tôn”. Chàng đứng đó, tay còn cầm chổi, nhưng đã đi xuyên suốt hết các tầng bụi bặm của tâm để trở về với tự tính tâm thanh tịnh vô nhiễm! Qua thời gian rèn luyện, Chu Lợi phủi sạch được 3 độc tham, sân, si từ trong đáy lòng. Trước ngũ dục, Chu Lợi không động tâm, không ý niệm phân biệt hận thù, ganh ghét đố kỵ, tâm nhập với lý pháp giới bình đẳng, dứt hết vô minh, hoàn toàn Giải thoát. Để nhờ Phật ấn chứng, Chu Lợi đến trước Phật bái yết và trình bày sự chứng ngộ. Đức Phật tán thán Chu Lợi, tập họp đại chúng và dạy rằng:

- Này các Tỳ kheo! Người đọc tụng hàng ngàn quyển kinh nhưng không hiểu ý nghĩa của kinh cũng không theo ý kinh để hành trì, ích lợi không bằng việc chỉ đọc một câu kệ mà thấu rõ nghĩa lýquyết tâm hành trì. Chu Lợi Bàn Đặc trước đây rất ngu muội, nhưng nhờ quyết tâm thọ trì một câu kệ ngắn mà được nhập chứng. Chu Lợi là một tấm gương sáng cho tất cả noi theo trên bước đường tìm cầu đạo lý nhập Thánh, siêu phàm.

Trong các đệ tử, Đức Phật xem kẻ quét bụi Chu Lợi là người khôn khéo nhất khi chuyển hóa tâm thức. Ngày nay người ta vẫn nói những ai muốn phát triển tâm thức nên thành tâm cầu nguyện đến sự gia trì của A La Hán Chu Lợi, nhất là khi nghe giảng pháp mà họ không hiểu cũng chẳng nhớ gì. Tôn giả Chu Lợi là một thí dụ lịch sử sinh động nhằm minh chứng rằng, lòng từ bi và tâm chí thành tha thiết thực hành Phật pháp có khi quan trọng hơn một đầu óc tri thức thế gian sắc sảo.
_______________

Trưởng lão Chu Lợi Bàn Đặc (tiếng Phạn là Cūlapanthaka, tiếng Tạng là Chunda) là một trong những vị đại đệ tử của Đức Phật với danh hiệu “Bậc Liễu nghĩa đệ nhất”. Trong Tăng chi, Chương Một Pháp, liệt kê các vị Tỳ kheo đại đệ tử, Ngài Chu Lợi được nhắc đến 2 lần:
- Trong các vị đệ tử Tỳ kheo của Ta, có thể dùng ý hóa thân, tối thắng là Cūlapanthaka.
- Trong các vị đệ tử Tỳ kheo của Ta, thiện xảo về tâm thắng tiến, tối thắng là Cūlapanthaka.
Trong Tăng nhất A-hàm, Chương Một Pháp, thuộc Hán tạng, cũng có đề cập đến Ngài:
- Tỳ kheo bậc nhất trong chúng Thanh văn của Ta về tài hay thay hình đổi dạng, tạo mọi thứ biến hóa, chính là Tỳ kheo Chu Lợi Bàn Đặc.

(Lược trích ấn phẩm “Sư tử tuyết bờm xanh”

Nguyên tác: “The Snow Lion’s turquoise mane”

Việt dịch: Nguyễn Tường Bách

NXB Tổng hợp TP. HCM, 1997)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24139)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20564)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18812)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18267)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19839)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14838)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12961)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13945)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13143)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 13998)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17628)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15390)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14686)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14449)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17847)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21887)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19447)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20598)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25126)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16872)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14702)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18965)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21989)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20620)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25274)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15764)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15767)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20708)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 16998)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18625)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20009)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39303)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31502)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30593)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36006)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23854)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26544)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant