Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm

08 Tháng Tư 202318:24(Xem: 1600)
Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm
Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm

Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan
 Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện. Có người còn cho là sư phụ có một thân thể mạnh mẽ với sức khoẻ tuyệt tốt, nhưng sự thật không phải vậy.

Thời trẻ đi hoằng pháp Ngài đã vướng bịnh phong thấp, về già thì bị tiểu đường hành hạ, Ngài còn phải trải qua mấy lần phẫu thuật tim. Một năm Ngài đi khắp thế giới tới mấy bận. Có lần, tôi không nhịn được, chất vấn:

- Bạch sư phụ, phải chăng Ngài có ý chí rất mạnh mẽ?

Đại sư đáp:

- Chẳng phải do ý chí. Chỉ cần tri hành hợp nhất, có lòng xả ngã, nếu vô ngã được thì xử sự vô tâm. Tất cả là nhờ hành theo pháp Phật mà thôi.

Cảm giác xúc động trào dâng mỗi lần diện kiến Đại sư làm tôi nhớ tới những lời bình phẩm của một số người không hiểu dành cho Ngài. Những lời phê phán ấy giống như con chim sẻ chê khổng tước có cái đuôi quá dài, quá lớn; mà không thấy được vẻ xinh đẹp mỹ lệ phô bày qua cái đuôi. Hệt như ve sầu cằn nhằn giọng hót của Hoàng Oanh réo rắt quá, mà không biết rằng đó là chất giọng thiên phú của chim oanh. Cũng như con hồ ly dè bĩu con voi có sáu ngà, cho rằng chỉ tổ lượm thượm khi qua sông, mà không biết được là bên kia bờ có nhiều chúng sinh đang kêu gào chờ voi cứu hộ.

Nơi nhân thân Đại sư, mỗi hành vi, mỗi cử chỉ, mỗi cái nhấc tay động chân đều thể hiện đức độ tu hành chân chánh. Nhắc đến tu hành, nếu nói theo Phật Pháp thìĐại sư đúng là “ thiện căn sâu dày, túc duyên có sẵn..” từ đời trước. Ngài sinh ra trong một gia đìnhtín ngưỡng thờ Phật, Thần, thuần thành ở miền bắc Giang Tô và được hít thở bầu không khí mang đậm chất tôn giáo ngay từ thuở còn bé tí.

Đại sư kể:

“Hồi nhỏ tôi ở nhà bà ngoại. Ngoại tôi ăn chay tụng kinh từ tuổi mười tám. Khi được gả đi bà vẫn giữ nếp tu hành tinh tấn đó. Khuya nào ngoại tôi cũng thức dậy đúng giờ để công phu. Ngoại thờ Phật, Thần chung, bà không biết chữ nhưng lại thuộc làu kinh Di Đà, kinh Kim Cang, Phổ Môn v.v.. Do cảm được nhiều phản ứng lạ nơi thân nên ngoại cho đó là thần thông và càng ra sức tinh tấn tu trì.”

Thuở ấu thơ sống cạnh bà ngoại có hai việc gây ấn tượng sâu sắc khiến Đại sư nhớ mãi. Đó là năm lên ba, bốn tuổi; Ngài cùng với người chịăn chay thi, bà ngoại rất cưng và vui lòng. Do vậy, ngay từ bé tíĐại sư đã quen mùi chay lạt.

Còn một việc nữa là vào mỗi khuya canh ba, bà ngoại Ngài thường thức dậy tĩnh tọa, lúc bà đang ngồi thì trong bụng phát ra tiếng kêu rất lớn giống như sông cuộn biển gào.

“Tôi thường bị tiếng động đó làm cho thức giấc, không nhịn được nên buột miệng hỏi:

- Ngoại ơi ngoại! Sao bụng bà kêu to dữ thế?

Ngoại tôi đắc ý trả lời:

- Đây là công phu có được nhờ tu đấy cháu à!

Tôi còn quá bé nên yên trí là vậy.

Sinh trưởng trong gia đình mang đậm màu sắc tôn giáo nên từ nhỏ sư phụ đã tiếp xúc với đủ loại tín ngưỡng trong dân gian về thần đạo, về các tập tục bói quẻ, xem vong linh đi âm ty.. Trong lòng dù có nghi ngờ song Ngài cũng không bài xích dữ dằn. Điều này khiến cho Đại sư sau khi xuất gia rồi vẫn có cái nhìn bao dung với các tín ngưỡng, không khinh rẻ thần đạo mê tín.

“Năm 1937, thân phụ tôi đi Nam Kinh buôn bán rồi biệt tích, hai năm sau tôi được mười hai tuổi, từ Giang Tô theo mẹ lên Nam Kinh tìm cha.

Trước khi tới Nam Kinh, dọc đường thấy quân lính tập trận nơi quảng trường rộng lớn, tôi hiếu kỳ chen vào đám đông để xem. Còn đang ngắm mê mãi thì chợt có một vị Hòa thượng tới sau lưng tôi hỏi:

- Con có chịu lên Thê Hà xuất gia làm Hòa thượng không?

Tôi đáp không cần suy nghĩ:

- Dạ chịu!

Không lâu, Hòa thượng Chí Khai trụ trì Thê Hà sơn cho người tìm tôi, bảo:

- Nghe nói con chịu xuất gia làm Hòa thượng, bái ta làm thầy thì thích hợp rồi!

Lúc đó mẹ tôi cách gì cũng không đồng ý, vì chồng chưa biết sống chết ra sao, giờ con trai lại đòi xuất gia. Bà nằng nặc khuyên tôi nên về quê. Song tôi nói rằng đã hứa với sư phụ thì tuyệt đối không thể thất tín nuốt lời. Tôi bèn lên núi Thê Hà, còn một mình mẹ tôi thui thủi, quay trở lại quê nhà.”

Nếu không phải do túc duyên đời trước thì sao có thể chỉ vì một câu nói mà làm thay đổi cả đời của Đại sư được? Lúc đó Đại sư chỉ mới mười hai tuổi, song đã biết xem trọng lời hứa, “thủ tín như sơn”. Lời giải thích khẳng khái của Ngài tiềm tàng chí khí của một Bậc đại trượng phu khiến người ta phải cảm phục. Và trải qua suốt thời niên thiếu tu tập, thực nghiệm ở Tùng lâm, nhân cách Đại sư đã được trui rèn hoàn chỉnh.

Đại sư thường nói: - “ Thà hướng dẫn một đoàn binh, dễ hơn hướng dẫn một đoàn tăng!” - Vì huấn luyện quân nhân tài giỏi chỉ cần có kỹ luật nghiêm nhặt là đủ, nhưng để hướng dẫn và đào tạo được tăng tài ưu tú thì việc mài luyện phải cực nhọc gay go hơn nhiều!

Khó khăn rèn luyện con người

Đối với những sinh hoạt thời niên thiếu ở Thê Hà, mặc dù đã trải qua sáu mươi năm nhưng sư phụ vẫn còn nhớ như in.

Hòa thượng kể:

Sư phụ tôi là hòa thượng Chí Khai, một nhân vật vĩ đại có tiếng tăm, nổi danh khắp xa gần. Là trụ trì danh sơn Thê Hà, nhưng đối với tôi Ngài chẳng hề giúp đỡ gì. Tôi ở bên ngoài tham học mấy năm cũng không được gặp Ngài, nói gì đến việc thân cận thỉnh giáo? Cho dù có được gặp thì sư phụ tôi cũng xử sự hệt như những vị thầy khác, nghĩa là mỗi lần gặp bọn nhỏ chúng tôi, nếu không quở trách thì cũng la mắng. Xưa nay sư phụ chưa từng hỏi tôi thiếu gì, cần gì? Trong suốt mười năm tu học ở Tùng lâm sư phụ chỉ cho tôi có hai bộ đồ. Tôi cũng chẳng dám viết thư về gia đình xin tiền mua đồ. Nếu có viết thư thăm gia đình, tôi chỉ kể toàn chuyện vui, rằng: “Sư phụ đối với con rất tốt, con hiện sống an ổn, xin ở nhà đừng lo!”

Nhưng có muốn viết thư về cho mẹ báo tin mình bình an thì cũng chẳng thể gởi đi, thư viết từ năm ngoái đến nay vẫn còn nằm ì ra đó vì không có tiền mua tem. Có lúc y phục rách quá, tôi lấy giấy đắp vào vá đỡ. Giày bị thủng đế tôi cắt bìa cứng kết với thành giày mà mang. Vớ bị hỏng thì tôi nhặt vớ người khác vứt bỏ xỏ đỡ. Do không dễ gì lượm được chiếc tương xứng, nên trong kýức, tôi nhớ lúc nào mình cũng mang vớ chiếc dài chiếc ngắn, chiếc bự chiếc nhỏ, không bao giờ đồng nhau.

Thân thể tôi phát triển mạnh khoẻ bình thường. Trong mười năm tham học tôi bị bịnh hai lần: một lần là đau răng, một lần là sốt rét. Nhưng ở Tùng lâm dù có bị bịnh cũng không được phép nghỉ, vẫn phải theo chúng công phu sớm tối. Mỗi ngày tôi gắng gượng chống chỏi với cơn bịnh: làm, nghỉ, đồng như mọi người. Cứ thế độ hơn nửûa tháng, không hiểu sao bịnh cũng được lành.

Vào thuở mấy mươi năm về trước, xã hội Trung Hoa kinh tế chưa phát triển như bây giờ. Tài vật các chùa chẳng được đầy đủ. Thêm nỗi “cháo ít tăng đông”, cái gì cũng thiếu. Lúc tôi vào chùa ở thì tăng chúng có hơn bốn trăm người. Do kinh tế eo hẹp nên nửa tháng mới được ăn cơm một lần, còn thì làăn độn, nấu các thứ rau củ táp nham màăn. Mỗi ngày hai bữa sáng, chiều đều dùng cháo thật loãng, ăn uống cực kỳ đạm bạc.

Thức ăn độ nhật thường là xác đậu hũ, các thứ rau củ muối, lúc nào cũng có dòi trùng bò ngo ngoe trong mấy thứ đồ muối này. Đậu hũ thì để dành cho khách dùng, xác đậu mới là thức ăn của học tăng. Không có dầu, nên chẳng cần xào nấu chế biến gì, cứ thế màăn, ăn không hết thì đem xác đậu đi phơi, lũ chim sẻ được dịp mò tới đánh chén no nê, còn bỉnh phân lại làm lễ vật tặng chúng tôi.

Mỗi ngày lên quả đường thọ thực, nhìn thức ăn dọn ra, chẳng ai tiết nước miếng nổi. Lúc tụng kinh cúng dường nghe mùi hương thum thủm xông lên nhức cả mũi, chúng tôi chỉ biết nín thở nuốt đại.

Trong canh dùng, vài xác côn trùng nổi lều bều trên mặt nước, có thể nhìn thấy thi thể của vài con ốc, rít, giun bé tẹo nằm tận dưới đáy tô, chúng tôi đành nhắm mắt ăn đại.

Cuộc sống trải qua nhiều năm như thế, dinh dưỡng cơ bản đã không có thì nói chi tới đồ ngon? Song có điều không thể tưởng được là trong chúng chẳng nghe nói có ai bị bịnh bao tử hay đau ruột gì do kiểu ẩm thực không lành mạnh như thế. Các bịnh cảm mạo đã ít lại càng ít.

Dù ăn uống thiếu dinh dưỡng, không hợp vệ sinh cỡ đó, song các bạn đồng tu của tôi cơ thể vẫn phát triển tốt, người nào tướng tá cũng vạm vỡ, mạnh khoẻ cao to. Nguyên nhân là nhờ đâu chứ? Tôi cho rằng nghi thức tụng kinh niệm chú cúng dường lúc thọ thực rất quan trọng, chẳng những giúp chúng tôi khử trừ bịnh tật mà còn giúp bảo hộ thân thể mạnh khoẻ.

Nếp sống kham khổ với mức sinh hoạt đạm bạc đã trui rèn tâm chí, giúp ích cho tôi rất nhiều về sau này.

Đài Loan là vùng đất có nhiều cây trái, sản vật dồi dào, nên nhiều người có thói quen thích dùng nước trái cây, nước ngọt sau bữa ăn. Tôi thừa biết các thức uống này rất ngon. Song thuởở Tùng lâm nơi Đại Lục, ngay cả cái nhãn hiệu của các món giải khát này tôi cũng chưa từng nghe qua, huống nữa là được nhìn thấy, sờ mó và nếm chúng. Bởi vậy mà tôi có thói quen không uống nước trái cây, không hay ăn vặt, không kén ăn.

Bây giờ mỗi khi tín đồ biếu tặng các thứ này, tôi đều chia hết cho người để gieo duyên. Chuyện ăn uống đối với tôi chỉ cần no là đủ, ngon dở không thành vấn đề, không cần phải là những món sơn hào hải vị hay rượu quỳnh chén ngọc. Thậm chí nếu không được ăn cũng không sao.. Được vậy chính là nhờ tháng ngày sống kham khổởû Tùng lâm, đã luyện tập và un đúc cho tôi các đức tính này.

Tục ngữ nói: “Bịnh tùng khẩu nhập”. Hiện nay phần đông người ta bị bịnh đều do ăn uống quá độ mà ra. Chính thói quen không ham ăn đã bảo vệ sức khoẻ và giữ cho cơ thể tôi khang kiện, giúp tôi tiết kiệm sinh lực. Vì tôi không phải tốn nhiều thời gian vào chuyện ăn uống và có thì giờ để hoằng pháp độ sinh nhiều hơn.

Thuở tu học ở Tùng lâm, ngày có được ba bữa cơm no đủ đã khó, lại không có tiền lận lưng. Vì không tiền nên đâu có mua sắm gì. Chẳng phải tôi giữ giới, sống khắc khổ không mua sắm, mà bởi không có tiền nên huân lâu thành thói quen. Dù bây giờ được nhận cúng dường nhiều, tôi cũng đã quen không tích chứa. Tôi cho rằng tích chứa là thống khổ. Do vậy hễ cóít tiền trong tay, tôi không hề cóý cất để dành mà nhanh chóng dùng vào việc kiến hưng Phật giáo hết cả. Nếu như đối với đạo, tôi có cống hiến được chút ít gì thì chính là nhờ tháng ngày tham học nghèo khổở Tùng lâm đã luyện cho tôi tính không tích trữ tài vật và cảm thông được các nhu cầu cần thiết của Phật giáo.

Thuở tham học ấy có lần tôi bị một vị sư trưởng nọ quở mắng, thầy tôi biết tôi bị la oan. Nghĩ chắc là tôi ấm ức lắm nên một ngày kia, ông cho người gọi tôi lên dạy dỗ. Sau một hồi bảo ban dò la ý tứ tôi xong, thầy tôi cầm gói trà thơm trên bàn lên, nói:

- Con cho là không có tiền, mách với ta thì ta sẽ cho con. Nhưng ta nói cho con rõ, nội tiền ta uống trà đây, nếu nhín cho con thì con cũng xài không hết, nhưng ta không cho! Vì sao ư? Bây giờ chắc chắn là con không hiểu, nhưng sau này, rồi sẽ có lúc con sẽ hiểu được lòng ta.

Lúc đó nghe thầy dạy, ngoài mặt tôi không phản ứng gì, nhưng trong lòng chẳng ưng, nghĩ thầm: “Mấy năm nay con nghèo trong túi chẳng có lấy một xu, thầy không cho tiền cũng không sao, cần gì phải giải thích trịnh trọng như thế chứ ?

Theo thời gian tôi trưởng thành và cuối cùng hiểu ra, biết được rằng sư phụ rất quan tâm, lo cho tôi. Ví như Ngài cho tiền để tôi sống thoải mái chút đỉnh thì chắc hẳn Ngài rất vui. Nhưng sư phụ không muốn giáo dưỡng tôi thành một đồ đệ có tiền của rồi quen tính biếng lười ỷ lại. Ngài cho rằng tháng ngày trui rèn gian khổ sẽ tập cho tôi tính kiên trì nhẫn nại, chịu đựng giỏi. Cách giáo hóa của Ngài xem như lạnh lùng vô tình nhưng lại tràn trề lòng từái, giúp cho tôi về sau có được tính không ham cầu vật chất.

Tôi thấy rằng giáo hóa người bằng sự dịu dàng ôn nhu thì rất dễ, song dạy người lạnh lùng nghiêm khắc mà có được tấm lòng từái bao la thì thật là khó.

Nhắc lại chuyện sáu mươi năm xưa Đại sư nói:

- Hồi ấy các chùa bên Đại Lục không có đủ điều kiện để sinh hoạt tốt như hiện giờ, song nhờ qui củ nghiêm nhặt và cách huấn luyện vô tư đã mài dũa tín tâm người học đạo, giúp cho cuộc sống họ từ sinh hoạt đến tư duy đều là tu hành.

Đó là vì sao Đại sư thường nói: “Thàở Tùng lâm đánh giấc, chẳng hành đạo ở am cốc. Thàăn cơm ngàn nhà, chẳng ăn cơm một nhà.”

Người xuất gia trải qua bao khổ luyện nghiêm nhặt ở Tùng lâm nên mọi việc từ ăn, uống, ngủ nghỉ, hành sự .. chỗ chỗ đều vô quái ngại và không gì mà không là đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24141)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20566)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18818)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21312)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18269)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19841)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14840)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12966)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13950)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13145)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14002)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17631)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15393)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14688)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14452)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17850)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21891)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20601)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25128)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16874)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14706)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18970)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 21996)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20631)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25276)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15765)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15769)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20718)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17002)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18630)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20013)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39304)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31503)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36008)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23860)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26546)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant