Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Pháp Phòng Hộ Các Căn

29 Tháng Tư 202318:52(Xem: 1682)
Phương Pháp Phòng Hộ Các Căn
Phương Pháp Phòng Hộ Các Căn

Thích Trung Định

Làm Thế Nào

Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.

sáu giác quan là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Theo quan điểm của Phật giáo, sự tiếp xúc giữa các giác quan và các đối tượng trần cảnh là một cơ hội để tham muốn, chán nản, bất thiện tràn vào tâm thức. Định lý duyên khởi chỉ ra rằng, sự tiếp xúc sinh các cảm thọ, từ cảm thọ sinh ra ái dục, từ ái dục sinh ra chấp thủ, từ chấp thủ sinh ra hiện hữu, từ hữu có sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não. Khi cắt đứt một mắt xích nào trong chuỗi duyên khởi này thì khổ đau chấm dứt. Đó là ý nghĩa của phương pháp phòng hộ các căn.

Khi căn tiếp xúc với trần, con ngườithói quen tồn tại hai khuynh hướng phản ứng tâm lý, một là yêu thích, dễ chịu; hai là ghét bỏ, khó chịu. Theo Phật giáo, cả hai khuynh hướng trên đều do vô minh chi phối và là nguyên nhân sâu xa gây đau khổ. Chính vì thiếu hiểu biết về bản chất phụ thuộc và luôn thay đổi của các giác quan cùng các đối tượng của chúng mà con người yêu những gì hợp ý hoặc trở nên giận ghét với những gì không phù hợp và điều này làm cho chúng ta đau khổ. Có thể nói rằng đau khổ phát sinh chủ yếu là do tham, sân, si. Do vậy, phòng hộ các căn là ngăn chặn tâm tham, sân, si phát sinh do sự tiếp xúc.

Trong bài giảng đầu tiên, Bài giảng về lửa, Đức Phật tuyên bố rằng: “Tất cả đều đang cháy”. Tất cả chỉ là sáu căn, sáu trần và sáu thức. Con mắt đang cháy với sắc trần, lỗ tai đang cháy với thanh trần… tương tự như vậy với các căn và trần còn lại. Chúng đang cháy với những đám cháy của phiền nãođau khổ.

Tương ưng về xứ tuyên bố rằng, để đoạn tận vô minh và tạo ra sự hiểu biết chân thật, chúng ta phải quán chiếu tất cả sáu nội ngoại xứ (thập nhị xứ) là vô thường, khổ đau và vô ngã. Sáu căn đang cháy với sáu trần sinh ra tham đắm, chấp thủ, thì cũng từ nơi sáu xứ này để dập tắt, đoạn trừ chúng. Đây là con đường thực tập để đạt được Niết-bàn (S.35:147). Một con đường khác, được đề cập trong kinh Sự trống rỗng của thế giới (S.35:85), là phải thấy rằng sáu giác quan trống rỗng - trống rỗng về một cái tôi hay cái gì thuộc về tự ngã của tôi. Vì tất cả chỉ là sự phát sinh từ sáu căn, sáu trần và sáu thức, nên nó cũng là vô ngã1.

Phòng hộ các căn không có nghĩa là đóng bít các giác quan không cho tiếp xúc với các trần cảnh. Điều này là không thể. Chỉ chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn không để cho tâm rong ruổi tìm cầu rồi dẫn đến khổ đau. Trong kinh Tương ưng bộĐức Phật trình bày về phòng hộ các căn như sau:“Và làm thế nào, này các Tỷ-kheo, một người luôn phòng hộ các căn môn?

Ở đây, vị Thánh đệ tử, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy là vị Thánh đệ tử hộ trì các căn”2.

Kinh Trường bộ (kinh Sa-môn quả), Đức Phật dạy: “Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục”3. Hộ trì các căn bằng cách thực tập chánh niệm tỉnh giác, tâm không còn tham luyến với các trần cảnh, tâm an định và bắt đầu phát sinh niềm hỷ lạc. Đây chính là kết quả lợi lạc của pháp môn phòng hộ các căn, tức thực nghiệm một nếp sống sáng suốt, thanh thản, an lạc với cái tâm không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, không còn phản ứng dao động bởi mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Được như vậy, hành giả không còn bị ngoại cảnh chi phối, làm chủ được tâm và bắt đầu đi vào chánh đạo.

Trong kinh Trung bộ (kinh Căn tu tập), Đức Phật dạy về phương pháp chế ngự các căn như sau: “Này Ananda, thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh? Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo, mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý và bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: ‘Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên nơi ta, khả ý và bất khả ý này khởi lên nơi ta. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả’.

Cho nên, dẫu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do mắt nhận thức…”4.Vị ấy cũng thực hành như vậy với các căn còn lại.

Như vậy, để phòng hộ các giác quan có hai nhiệm vụ chính cần phải làm. Một là, vị ấy phải học cách kiểm soát ham muốn của mình khi căn tiếp xúc với trần. Hai là, vị ấy học cách nhìn rõ bản chất của tất cả những cảm giáckhông thật, vô thường, biến đổi.

Tuy nhiên, sự thực tập này đi ngược lại thói quen của xã hội văn minh vốn đề cao chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy cảm. Do đó, phần lớn con người vẫn thường sống trong sự chi phối bởi cảm xúc giác quan. Ngành quảng cáo, du lịch, ẩm thực, âm nhạc tập trung đánh vào, nhằm thỏa mãn thị giác, thính giác, khứu giác, vị giácxúc giác của khách hàng để thu về lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, ham muốn của con người để thỏa mãn về thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và các đối tượng tinh thần đã sinh ra cái gọi là nền văn minh của nhân loại.

Nhưng chính những ham muốn này đã trở thành một sự thật nghiệt ngã tạo nên mối đe dọa lớn đối với sự tồn vong của chúng ta. Mâu thuẫn của nền văn minh hiện đại nằm ở ngay chính nó: trong tâm ích kỷ cố hữu của con người đã vẽ ra một viễn cảnh để con người đạt được mục đích phục vụ sự thỏa mãn cảm giác. Bất chấp những thành tựu vượt trội của nó, thật khó để giả định rằng một nền văn minh đề cao tính tự trọng và hoạt động theo cách kích thích sự gia tăng ham muốn nhục dục ở con người như hiện nay có thể đảm bảo sự phát triển liên tụclâu dài mà không mang lại sự rắc rối.

Kết quả của xu hướng này là từ những suy nghĩ tham lam và hiếu chiến xuất phát từ tính tự cho mình là trung tâm đã mở đường cho mọi tệ nạn trong xã hội. Càng nhiều người tìm kiếm sự thỏa mãn trong các thú vui nhục dục thì thế giới càng rơi vào khủng hoảng. Ngày nay, người đã hiểu được rằng lòng tham hay dục vọng là đầu mối của chiến tranh và khủng hoảng toàn cầu như: ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v… Do đó, cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là thực tập kiềm chế lòng tham dục.

Bằng kinh nghiệm cá nhân, Đức Phật đã chỉ ra cho mọi người thấy rằng, một người không thể chinh phục được ham muốn của mình đối với các thú vui giác quan trừ khi bản thân vị ấy trải nghiệm được hỷ lạc phát sinh từ kết quả của sự thực tập thiền định. Điều này cho thấy thiền định của Phật giáo có khả năng điều phục những ham muốn nhục dục và con người có thể tìm kiếm những thú vui khác vượt lên những thú vui giác quan.

Đức Phật gọi những trải nghiệm hạnh phúc sinh ra từ thiền định ‘là hạnh phúc của sự từ bỏ, hạnh phúc của sự xả ly, hạnh phúc của sự an bìnhhạnh phúc của sự tỉnh giác’. Điều này giải thích trong thực tế rằng, những niềm vui sinh ra từ việc phòng hộ các căn có bản chất ôn hòavị tha, trong khi những niềm vui của giác quanbản chất hung hăng và ích kỷ.

Do đặc tính của chúng, niềm vui sinh ra từ thiền định trong Phật giáo được gọi là ‘những thứ tuyệt vời, thánh thiện và không sợ hãi’, trong khi những ham muốn giác quan được xem là ‘thấp hèn, xấu xa và đáng sợ’. Từ quan điểm này, chúng ta có thể nói rằng thế giới sẽ thoát khỏi thảm họa do con người tạo ra và phẩm giá con người sẽ tăng trưởng một khi việc chế ngự các căn của Phật giáo trở thành một trong những mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.

___________________

1 Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom Publications, Boston, 2005, p. 311.

2 F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.IV, pp.110-11.

3 HT.Thích Minh Châu, dịch, Trường bộ kinh, Kinh Sa-môn quả, (Sàmannaphala sutta).

4 HT.Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh Căn tu tập, https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung152.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2088)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2492)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2475)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 3063)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2098)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1982)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2296)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
(Xem: 2116)
Hơn nửa đời người, hay cả cuộc đời, nếm đủ đắng cay buồn tủi, niềm vui thì khiêm tốn, nỗi buồn quá mênh mông. Chòng chành theo con thuyền thân phận, lúc tàn khoảnh khắc theo cổ máy thời gian, nhìn lại trong rêu phong tĩnh lặng, trên khuôn mặt nhiều nếp chập chùng của ưu phiền, mới hiểu rằng “Ta có đại hoạn do ta có thân. Nếu ta không thân sao có đại hoạn”.
(Xem: 2104)
Khi mà vật chất chi phối cuộc sống, khi mà kinh tế làm chủ đạo nồng cốt kiến trúc xã hội, đạo đức truyền thống dân tộc và nhân cách con người trở thành thứ yếu.
(Xem: 2413)
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng...
(Xem: 2278)
Gần đây một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng...
(Xem: 2348)
Sống trong tư duy phân biệt đối đãi ở đời không chuyện gì không phải thị phi (đúng sai).
(Xem: 2408)
Hằng năm vào ngày 28 tháng 6 lần lượt mỗi chùa tại Đức tổ chức sinh nhật cho Hòa Thượng Phương Trượng Tổ đình Viên Giác.
(Xem: 2105)
Từ lâu, trong đời sống an tịnh, mỗi hành giả đều tự biết làm đẹp mình bằng hạnh đầu đà giữ giới.
(Xem: 2241)
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản của mọi sự vật hiện tượng là quan hệ nhân quả.
(Xem: 2363)
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
(Xem: 2292)
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
(Xem: 1916)
Bao tao nhân, mặc khách; bao ngôn ngữ của con người đã không tiếc lời ca tụng về Mẹ. Mẹ của tôi. Mẹ của anh. Mẹ của con và Mẹ của tất cả mọi người.
(Xem: 2372)
Tình mẫu tử, một chủ đề quá quen thuộc, không chỉ là mạch nguồn cảm hứng bất tận trong...
(Xem: 2264)
Cứ mỗi độ Vu Lan về, những người con Phật lại nao nao lòng.
(Xem: 2452)
Khi nói đến chữ Hiếu chẳng mấy ai lấy làm xa lạ, vì nó đã trở thành truyền thống rất quen thuộcăn sâu vào tâm trí ngay khi còn bé.
(Xem: 2443)
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
(Xem: 2586)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
(Xem: 2297)
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, gửi tặng sinh nhật mẹ
(Xem: 2085)
Hít vào tâm tỉnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời.
(Xem: 2148)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2292)
Kinh Phật chỉ nói lên sự thật để cho mọi người cùng suy xét mà sống sao cho được hạnh phúc an lạc, lợi mình, lợi người.
(Xem: 2128)
Theo truyền thống ở châu Á, thiền địnhgiác ngộlãnh vực của những người xuất gia và người tu luyện yoga
(Xem: 2209)
Mọi người ai cũng biết đạo Phậtđạo trí huệ, từ bi, tôn trọng sự sống của muôn loài.
(Xem: 3718)
“Người ngu nghĩ là ác Khi ác chưa chín muồi Ác nghiệp chín muòi rồi Người ngu chịu khổ đau”
(Xem: 2173)
Sau hơn 2.600 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(Xem: 2276)
Có người cho rằng có một công việc tốt là lựa chọn của họ trong cuộc sống hạnh phúc.
(Xem: 2744)
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”.
(Xem: 2369)
Xưa nay, hành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học.
(Xem: 2168)
Cuộc sống của con ngườivạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gianthời gian.
(Xem: 2315)
Chúng ta" giống như cây. "Chấp thủ" giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta.
(Xem: 2638)
Nhiều người lấy cái lí "Phật tại tâm" nên không bao giờ đi chùa, lễ Phật, tụng kinh hay tìm hiểu giáo lý.
(Xem: 2273)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay.
(Xem: 3155)
Chúng ta không nên quá bận lòng với những việc tốt xấu, đúng sai của thế gian, chỉ cần quản lý tốt
(Xem: 2358)
Sống trong đời, mỗi người nếu khôngthiện tâm nuôi dưỡng thì đời sống sẽ trở nên bức bách; con người sẽ sống mà không có hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2119)
Tu căn là một trong những pháp hành quan trọng của giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 2312)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2613)
Phiền não vô lượng, nghiệp chướng vô cùng nhưng nếu nắm trong tay chìa khóa chánh niệm, tỉnh giác...
(Xem: 2407)
Theo thuật ngữ Phật giáo Tàm – Quý có nghĩa là biết hỗ thẹn, biết liêm sĩ.
(Xem: 2223)
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
(Xem: 2044)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1770)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2703)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2305)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2758)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant