Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Vô Sanh Theo Lời Chỉ Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

21 Tháng Năm 202318:39(Xem: 1675)
Tánh Không Vô Sanh Theo Lời Chỉ Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

Tánh Không Vô Sanh Theo Lời Chỉ Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng 


Nguyễn Thế Đăng

Vị Đạo Sư Tối Thượng

 

Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ. Chỉ lấy một Kinh Đại Bát Nhã, có riêng một phẩm Vô Sanh, thứ 26, còn suốt cả kinh thì có rất nhiều. Cấp độ giải thoát được gọi là “Vô sanh pháp nhẫn”.

Ở đây, chúng ta tìm hiểu vô sanh theo sự thấu hiểu của Lục Tổ Huệ Năng, trong lời giảng dạy của ngài cho quan nội thị Tiết Giản, ở phẩm Hộ Pháp, phẩm thứ chín trong mười phẩm của Pháp Bảo Đàn Kinh.

 

Niên hiệu Thần Long, năm đầu, ngày rằm thượng nguyên, hoàng thái hậu Tắc Thiên và vua Trung Tông ra lời chiếu rằng: Trẫm thỉnh hai đại sư Huệ AnThần Tú vào cung để cúng dường, thừa khi công việc có rảnh thì nghiên cứu về Nhất thừa. Nhưng hai sư đều nhường và nói: Ở phương Nam có Thiền sư Huệ Năng được mật truyền y pháp của đại sư Hoằng Nhẫn, truyền tâm ấn của Phật, nên thỉnh người đến mà hỏi. Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu nghinh thỉnh, xin đại sư từ bi nghĩ đến, nhanh đến kinh đô.

Sư dâng sớ cáo bệnh xin từ, nguyện trọn đời ở nơi rừng núi.

Tiết Giản bạch: Các vị thiền đức ở kinh thành đều nói rằng: Muốn được ngộ đạo ắt phải ngồi thiền tập định. Nếu chẳng do thiền địnhđược giải thoát là điều chưa từng có. Vậy chưa rõ chỗ thuyết pháp của đại sư như thế nào?

Sư nói: Đạo do tâm ngộ, đâu phải do ngồi. Kinh nói: Nếu nói Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, đó là hành tà đạo. Vì sao thế? Không từ chỗ nào đến, cũng không có chỗ nào đi.

Không sanh không diệt, đây là Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp không tịch, đây là Như Lai thanh tịnh tọa. Cứu cánh không có gì là chứng, huống chi là ngồi?

Như Lai có ngồi có nằm, đó là hóa thân lịch sử của Như Lai, thuộc về thế giới sắc tướng. Như Lai không ngồi không nằm, đó là pháp thân Như Lai (Kinh Kim Cương), là bản tánh của tất cả mọi sự, pháp tánh. Tất cả sự chỉ dạy về thiền định của Lục Tổ là để thấy tánh và an trụ trong tánh.

Tánh, hay bản tánh, hay pháp tánh, pháp thân, là tánh Không không sanh không diệt, là bản tánh không tịch của tất cả các pháp: “Không sanh không diệt, đây là Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp không tịch, đây là Như Lai thanh tịnh tọa”.

Lìa khỏi thế giới hình tướng sanh diệt để bước vào thế giới tánh Không không sanh không diệt, không tịch, không chỉ là con đường Thiền tông mà là con đường chung của mọi tông phái Phật giáo.

Với sự thực hành liên tục như vậy, cả khi ngồi thiền và sau khi ngồi thiền, trong hoạt động hàng ngày, mà các sách dịch sang tiếng Anh từ các tác phẩm Ấn Độ - Tây Tạng gọi là hậu thiền định (“post – meditation”), người ta đạt đến chánh định tánh Không, mà Lục Tổ gọi là Nhất tướng tam muộiNhất hạnh tam muội:

“Nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí thì phải đạt đến Nhất tướng tam muộiNhất hạnh tam muội.

Nơi tất cả mọi chỗ đều chẳng trụ tướng, nơi các tướng kia chẳng sanh yêu ghét, cũng không lấy bỏ, chẳng nghĩ nhớ các việc lợi ích thành bại, an nhàn điềm tĩnh, rỗng rang đạm bạc, đây gọi là Nhất tướng tam muội.

Nơi tất cả mọi chỗ, đi đứng nằm ngồi, thuần một trực tâm, chẳng động đạo tràng, thành chân Tịnh độ, đây gọi là Nhất hạnh tam muội.

Nếu có người đủ hai tam muội này, như đất có hạt giống, ngậm chứa nuôi lớn đến khi thành quả. Nhất tướng, nhất hạnh tam muội cũng lại như vậy”.

(Phẩm Phó Chúc)

 

Tiết Giản bạch: Đệ tử về kinh chúa thượng chắc sẽ hỏi. Xin đại sư chỉ bày yếu nghĩa của tâm để tâu truyền lại với hai cung cùng các vị học đạo ở kinh thành. Ví như một ngọn đèn thắp ra cho trăm ngàn ngọn đèn, các chỗ tối đều sáng, sáng sáng không cùng.

Sư nói: Đạo không có sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay nhau; còn sáng sáng không cùng cũng là có cùng, đối đãi nhau mà lập ra hai cái tên. Cho nên kinh Tịnh Danh (Duy Ma Cật) nói:

“Pháp không có so sánh, vì không đối đãi nhau”.

 

Ở trong các tướng thì thấy có thay nhau, đối đãi nhau. Ở trong tánh thì chỉ một vị tánh Không, không đối đãi, xung đột nhau. Đây là “Định – Huệ đồng thể: trong ngoài nhất như, định huệ là bình đẳng” (Phẩm Định Huệ)

 

Tiết Giản bạch: Sáng ví như trí huệ, tối ví như phiền não. Người tu đạo nếu không lấy trí huệ soi phá phiền não thì làm sao ra khỏi phiền não từ vô thủy?

Sư nói: Phiền não tức Bồ đề (Giác ngộ) không hai không khác. Nếu lấy trí huệ chiếu phá phiền não, đó là kiến giải Nhị thừa, căn cơ xe nai xe dê. Người thượng trí đại căn chẳng phải như vậy.

Tiết Giản bạch: Thế nào là kiến giải Đại thừa?

Sư nói: Sáng và không sáng, người phàm thấy là hai, người trí thì rõ thông tánh chúng không có hai, tánh không hai tức là thật tánh. Thật tánh này nơi phàm ngu chẳng giảm, nơi hiền thánh chẳng tăng, trụ phiền não mà chẳng loạn, ở thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa hay chẳng ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng đổi, gọi đó là Đạo”.

 

Tánh, hay thật tánh, là tánh không hai.

Theo Bát Nhã Tâm Kinh, tánh không hai là “sắc tức là Không, Không tức là sắc”, sắc và Không là không hai.

Tánh không hai của phiền nãoBồ đề, của phàm phuhiền thánh, của phiền não và chẳng loạn, của thiền định và chẳng lặng, nói theo Trung Luận của Bồ tát Long Thọ, là Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế. Trung đạo đệ nhất nghĩa đế chính là Nhất tướng tam muộiNhất hạnh tam muội theo ngài Lục Tổ, như đã nói ở trên.

Tánh không hai là cái gọi là “vốn tam muội”, theo bài kệ của Lục Tổ:

Tâm địa không lỗi: tự tánh giới

Tâm địa không si: tự tánh huệ

Tâm địa không loạn: tự tánh định

Chẳng tăng chẳng giảm: tự kim cương

Thân tới thân lui: vốn tam muội.

(Phẩm Đốn Tiệm)

 

Tiết Giản bạch: Đại sư nói ‘chẳng sanh chẳng diệt’ thì có gì khác với ngoại đạo?

Sư nói: Chỗ nói chẳng sanh chẳng diệt của ngoại đạo là lấy cái diệt mà dừng dứt cái sanh, lấy cái sanh mà hiển bày cái diệt. Diệt như vậy thì giống như chẳng diệt, sanh như vậy mà nói là chẳng sanh.

Ta nói chẳng sanh chẳng diệt là vốn tự vô sanh nay cũng chẳng diệt, nên chẳng đồng với ngoại đạo. Ông nếu muốn biết yếu nghĩa của tâm thì chỉ tất cả thiện ác đều chẳng nghĩ suy bèn tự nhiên vào được tâm thể thanh tịnh, trong trẻo thường lặng mà diệu dụng như số cát sông Hằng.

Tiết Giản nhờ ơn chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, làm lễ từ giả về kinh đô, dâng biểu ghi các lời của Tổ”.

 

“Lấy cái diệt mà dừng dứt cái sanh, lấy cái sanh mà hiển bày cái diệt”, đây là phương pháp “đối trị” của những pháp môn ở những cấp bậc thông thường và trung bình. Ở những cấp độ cao, những cái đối trị dần dần ít đi, mà hành giả sử dụng cái đối trị bao trùm tất cả, đó là “bản tánh tự tịnh tự định”, “tánh người vốn tịnh”, “tánh tự thanh tịnh” (Phẩm Ngồi Thiền).

Tóm lại, đối với Lục Tổ, không cần phải lấy tướng để đối trị, trừ bỏ tướng, mà lấy tánh để giải quyết tướng. Không phải lấy cành lá để đối trị với cành lá, mà lấy cội gốc chân tánh để xử lý mọi phiền não cành lá. Ngài nói “Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, ấy là chân độ” (Phẩm Sám Hối). Đây cũng là phương pháp của những cấp độ cao, như Đại Toàn Thiện (Maha Ati, Dzogchen). Cụ thể, xem Nguồn Tối Thượng - Tantra căn bản của Dzogchen Semde, Chogyal Namkhai Norbu và Adriano Clemente dịch và giảng, bản tiếng Việt, 2018; hoặc Toàn Thiện Tự Nhiên, Natural Perfection của Longchenpa, Keith Dowman dịch, bản tiếng Việt, 2017, nxb Thiện Tri Thức.

 

Với một người hoàn toàn ở trong tánh Không như ngài, thì không có tướng sắc nào không là tánh Không, không có tướng sắc nào khác với tánh Không (“sắc chẳng khác Không”, Bát Nhã Tâm Kinh), tất cả là tánh Không, chẳng có tướng sắc nào thực sự sanh ra, cho nên nói tánh Không là “vốn tự vô sanh”. Nhưng tánh Không không phải là đoạn diệt, không gì cả, không gì cả, nên nói “nay cũng chẳng diệt”.

Thấy được tánh Không như vậy thì không còn chạy theo các tướng có vẻ phân biệt bề ngoài để tạo thành những suy nghĩ xấu tốt, đúng sai, “bèn tự nhiên vào được tâm thể thanh tịnh, trong trẻo thường lặng mà diệu dụng như số cát sông Hằng”.

Tâm thể thanh tịnh chính là tánh Không. Tâm thể thanh tịnhVô niệm, Vô tướng, Vô trụ, như ngài nói trong Phẩm Định Huệ thứ tư ở trước. Và tâm thể ấy không phải là không có gì cả, không là gì cả, một cái ngoan không, vô ký, nhưng “trong trẻo thường lặng mà diệu dụng như số cát sông Hằng”.

 

Trong năm ấy, ngày mồng ba tháng chín, có lời chiếu dụ khen tặng rằng: Đại sư cáo từ vì già bệnh, vì trẫm mà tu hành, là ruộng phước của nước. Sư cũng như ngài Tịnh Danh xưa kia bày ra việc bệnh ở thành Tỳ Da Ly mà xiển dương Đại thừa, truyền pháp bất nhị tâm yếu của chư Phật.

Tiết Giản có truyền lời Sư chỉ dạy về tri kiến Như Lai. Trẫm nhờ tích tập việc thiện và trồng căn lành đời trước, được gặp Sư ra đời mà tỏ hiểu pháp thượng thừa, thật cảm ơn Sư, đầu đội chẳng xiết.

Trẫm xin dâng cái áo cà sabình bát bằng thủy tinh. Lệnh cho quan Thứ sử ở Thiều Châu sửa sang ngôi chùa và sắc tứ chùa cũ của đại sư ở là Quốc Ân tự”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2438)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 3030)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2076)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1958)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2273)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
(Xem: 2087)
Hơn nửa đời người, hay cả cuộc đời, nếm đủ đắng cay buồn tủi, niềm vui thì khiêm tốn, nỗi buồn quá mênh mông. Chòng chành theo con thuyền thân phận, lúc tàn khoảnh khắc theo cổ máy thời gian, nhìn lại trong rêu phong tĩnh lặng, trên khuôn mặt nhiều nếp chập chùng của ưu phiền, mới hiểu rằng “Ta có đại hoạn do ta có thân. Nếu ta không thân sao có đại hoạn”.
(Xem: 2079)
Khi mà vật chất chi phối cuộc sống, khi mà kinh tế làm chủ đạo nồng cốt kiến trúc xã hội, đạo đức truyền thống dân tộc và nhân cách con người trở thành thứ yếu.
(Xem: 2389)
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng...
(Xem: 2244)
Gần đây một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng...
(Xem: 2299)
Sống trong tư duy phân biệt đối đãi ở đời không chuyện gì không phải thị phi (đúng sai).
(Xem: 2384)
Hằng năm vào ngày 28 tháng 6 lần lượt mỗi chùa tại Đức tổ chức sinh nhật cho Hòa Thượng Phương Trượng Tổ đình Viên Giác.
(Xem: 2083)
Từ lâu, trong đời sống an tịnh, mỗi hành giả đều tự biết làm đẹp mình bằng hạnh đầu đà giữ giới.
(Xem: 2219)
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản của mọi sự vật hiện tượng là quan hệ nhân quả.
(Xem: 2345)
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
(Xem: 2259)
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
(Xem: 1864)
Bao tao nhân, mặc khách; bao ngôn ngữ của con người đã không tiếc lời ca tụng về Mẹ. Mẹ của tôi. Mẹ của anh. Mẹ của con và Mẹ của tất cả mọi người.
(Xem: 2348)
Tình mẫu tử, một chủ đề quá quen thuộc, không chỉ là mạch nguồn cảm hứng bất tận trong...
(Xem: 2238)
Cứ mỗi độ Vu Lan về, những người con Phật lại nao nao lòng.
(Xem: 2410)
Khi nói đến chữ Hiếu chẳng mấy ai lấy làm xa lạ, vì nó đã trở thành truyền thống rất quen thuộcăn sâu vào tâm trí ngay khi còn bé.
(Xem: 2426)
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
(Xem: 2565)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
(Xem: 2263)
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, gửi tặng sinh nhật mẹ
(Xem: 2060)
Hít vào tâm tỉnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời.
(Xem: 2136)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2280)
Kinh Phật chỉ nói lên sự thật để cho mọi người cùng suy xét mà sống sao cho được hạnh phúc an lạc, lợi mình, lợi người.
(Xem: 2105)
Theo truyền thống ở châu Á, thiền địnhgiác ngộlãnh vực của những người xuất gia và người tu luyện yoga
(Xem: 2185)
Mọi người ai cũng biết đạo Phậtđạo trí huệ, từ bi, tôn trọng sự sống của muôn loài.
(Xem: 3677)
“Người ngu nghĩ là ác Khi ác chưa chín muồi Ác nghiệp chín muòi rồi Người ngu chịu khổ đau”
(Xem: 2153)
Sau hơn 2.600 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(Xem: 2256)
Có người cho rằng có một công việc tốt là lựa chọn của họ trong cuộc sống hạnh phúc.
(Xem: 2712)
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”.
(Xem: 2333)
Xưa nay, hành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học.
(Xem: 2139)
Cuộc sống của con ngườivạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gianthời gian.
(Xem: 2285)
Chúng ta" giống như cây. "Chấp thủ" giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta.
(Xem: 2619)
Nhiều người lấy cái lí "Phật tại tâm" nên không bao giờ đi chùa, lễ Phật, tụng kinh hay tìm hiểu giáo lý.
(Xem: 2260)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay.
(Xem: 3129)
Chúng ta không nên quá bận lòng với những việc tốt xấu, đúng sai của thế gian, chỉ cần quản lý tốt
(Xem: 2275)
Sống trong đời, mỗi người nếu khôngthiện tâm nuôi dưỡng thì đời sống sẽ trở nên bức bách; con người sẽ sống mà không có hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2031)
Tu căn là một trong những pháp hành quan trọng của giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 2226)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2515)
Phiền não vô lượng, nghiệp chướng vô cùng nhưng nếu nắm trong tay chìa khóa chánh niệm, tỉnh giác...
(Xem: 2387)
Theo thuật ngữ Phật giáo Tàm – Quý có nghĩa là biết hỗ thẹn, biết liêm sĩ.
(Xem: 2139)
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
(Xem: 2034)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1748)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2613)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2258)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2729)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2502)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2211)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant