Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyến đò canh ba

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 17961)
Chuyến đò canh ba


Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng.

Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp? Hay còi tàu giục giã sân ga có làm nôn nao bao người đi, kẻ ở?


Nhân gian đã từng ngược xuôi muôn vạn chuyến đi, về, nhưng con đò kia, chuyến tàu nọ chẳng lưu lại gì như:
“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”
Nhạn liệng giữa hư không,
Bóng chìm dưới nước.
Nhạn không để dấu vết lại,
Nước chẳng lưu bóng làm chi.
(VNPG sử lược, HT. Mật Thể)

Thế nên, nhân gian cứ đến và đi như gió thoảng mây trôi, cứ tiếp tục luân hồi chìm đắm, dù thảng hoặc, sách vở ghi lại những Đến và Đi “lịch sử” theo quan niệm hạn hẹp của nhân gian. Chẳng hạn - một sự kiện thôi - như chuyến đi của tráng sĩ Kinh Kha, một mình một kiếm sang Tần với nhiệm vụ giết bạo chúa để cứu muôn dân. Thí dụ sự kiện này vì Kinh Kha được ca ngợi tới mức danh-từ-riêng “Kinh Kha” được người đời dùng như một tĩnh từ kép để nói về cái đẹp, cái uy dũng, cái hào khí ngất trời, thỉnh thoảng thấy trong thơ văn, như bước-chân kinh-kha, khí-phách-kinh-kha, tấm-lòng-kinh-kha v.v... Tráng sĩ Kinh Kha không hoàn thành được sứ mạngâm mưu bị bại lộ. Dù không ai luận anh hùng qua sự thành bại, nhưng những huyền thoại quanh việc Kinh Kha sang Tần có những điều tàn nhẫn quá đáng. Chẳng hạn, trong tiệc rượu vua quan triều thần khoản đãi trước lúc ra đi, Kinh Kha chỉ buột miệng khen cánh tay đẹp của một ca nhi dâng rượu thì sau đó ít phút, một mâm tặng phẩm phủ khăn lụa đỏ được đem ra. Kinh Kha mở tấm lụa, thảng thốt. Đó là đôi tay đẹp của người ca nhi vừa dâng rượu!!!

Chuyến ra đi làm sao còn đẹp khi máu vô tội đã chảy vì bước chân người đi!?

Nhưng may thay, có những chuyến đi không tiệc rượu, không nhã nhạc, không cả tấp nập tiễn đưa, nhưng những chuyến đi ấy còn rực rỡ hào quang đến nay, còn là đuốc soi đường, còn vô cùng vô tận lợi ích quần sanh.

Các bạn có thì giờ không? Chúng ta ôn bài nhé, chỉ là ôn bài thôi, vì câu chuyện này chúng ta đều đã được nghe qua ít nhiều nên trong khi ôn bài, ta sẽ không chú tâm vào chi tiết nội dung mà sẽ nhìn bằng nhãn quan của người thưởng thức hội họa, nghĩa là nhìn toàn diện cái đẹp phảng phất, mênh mang đã tạo thành tuyệt tác, chứ không tấm tắc khen tranh vì bức này vẽ cái ly giống quá, bức kia vẽ bông hoa thật thắm tươi. Nhìn ngắm như thế, e rằng chúng ta chỉ thấy cảnh mà không thấy cái tâm đã tạo ra cảnh.

Bài ôn hôm nay là câu chuyện người thanh niên tên Huệ Năng, nhà nghèo, mù chữ, xuất thân từ đất Lĩnh Nam. Cha mất sớm, Huệ Năng làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chưa từng bao giờ được đến trường tiếp nhận một chữ Thánh Hiền. Một lần giao củi tới nhà khách, Huệ Năng thoáng nghe tiếng tụng kinh. Dừng sát bên vách, ghé tai chăm chú, chàng thanh niên đó nghe được câu kệ “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Chỉ câu kệ đó đã thúc đẩy Huệ Năng can đảm bước vào hỏi:

- Thưa ngài, ngài đang tụng kinh gì đó?

Khách bảo:

- Ta tụng kinh Kim Cang, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai tuyên giảng.

- Thưa ngài, từ đây tới đó bao xa?

- Đi khoảng ba mươi ngày sẽ tới, ngươi hỏi làm chi?

- Thưa ngài, tôi muốn được nghe pháp vi diệu này.

Tấm lòng thiết tha cầu đạo của chàng thanh niên nghèo đã làm một thiện nhân cảm động. Người ấy đưa cho Huệ Năng mười lạng bạc, bảo về thu xếp sự ăn ở cho mẹ già để yên tâm lên đường trực chỉ Hoàng Mai.

Nếu duyên chưa hội đủ, có kẻ xa lạ nào sẵn lòng đưa mười lạng bạc cho người thanh niên nhà quê, làm nghề đốn củi, chỉ vì ý muốn vu vơ là tìm thầy học đạo?

Chỉ chi tiết này cũng đủ khiến chúng ta rơi lệ, phải không quý đạo hữu? Vì nếu không an tâm về cái ăn, nơi ở của mẹ già thì người con hiếu thảo như Huệ Năng không bao giờ ra đi được, dù là đi tìm đạo.

Chuyến đi đó, tranh vẽ nào có thể đẹp hơn?

Khi đến huyện Huỳnh Mai, Huệ Năng hỏi đường tới chùa Đông Thiền, vào bái yết Ngũ Tổ. Tổ hỏi:

- Ngươi từ đâu? Tới cầu chi?

- Thưa Tổ, con người Lĩnh Nam, tới cầu làm Phật.

- Người Lĩnh Nam quê mùa, sao cầu làm Phật được?

- Thưa Tổ, người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh thì không phân chia Nam Bắc. Thân quê mùa này so với Tổ có khác, nhưng Phật tánh trong thân này với thân Tổ nào sai khác chi đâu!

Nghe thế, Tổ Hoằng Nhẫn vội nói:

- Thôi được, hãy đi xuống nhà trù, lo công việc giã gạo.

Huệ Năng quỳ xuống, lạy tạ Tổ đã thâu nhận và vâng lời, xuống nhà bếp lo giã gạo, bửa củi.

Chúng ta tưởng Tổ tàn nhẫn ư? Không đâu, Tổ quá từ bi đấy, vì Ngài nhận ra ngay, thanh niên nhà quê này không phải là tầm thường. Trước mặt đông đảo môn sinh của chùa Đông Thiền, Ngũ Tổ không muốn họ nhận ra sự quan tâm đặc biệt của Tổ đối với kẻ nghèo khổ, vừa từ xa đến. Đó là Tổ muốn bảo vệ Huệ Năng, không chỉ buổi đầu đó mà để cho an toàn, tám tháng sau Tổ cũng không ngó ngàng tới người thanh niên suốt ngày bửa củi, giã gạo dưới bếp.

Nhưng hạt đã gieo, phải tới lúc nẩy mầm. Đó là khi Tổ gọi toàn thể môn sinh, hơn một ngàn người tới, truyền rằng:

- Các con theo học ta đã lâu, nay tới lúc kiểm điểm lại thành quả mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ, nói lên cái đã thấy biết của mình. Ta sẽ duyệt xét từng bài, hễ nội dung chứng tỏ đã ngộ, ta sẽ trao truyền y bát cho kẻ đó, lãnh trách nhiệm của vị Tổ thứ sáu.

Thật là một lời truyền vô cùng quan trọng. Cả ngàn môn sinh họp nhau bàn bạc rồi cùng đồng ý xin thầy Thần Tú đại diện, làm một bài thôi vì Thần Tú là người thông minh, trí tuệ nhất đại chúng, ai mà có thể làm hay hơn được!

Thần Tú viết bài kệ lên vách tường:

Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.

Đại ý, thân là cây Bồ-đề, tâm như tấm gương trong, phải luôn lau chùi quét dọn cho bụi khỏi bám vào.
Bài kệ được các đồng môn của Thần Tú nức nở khen hay, ai cũng thuộc, cũng đọc nghêu ngao suốt ngày, cho đến nơi nhà bếp, Huệ Năng cũng nghe được. Người thanh niên suốt tám tháng trời chỉ im lặng bổ củi, giã gạo, đã mon men đến bức tường có bài kệ đó, nhờ một người đọc lại cho nghe. Nghe xong, Huệ Năng bảo người ấy:

- Tôi cũng có bài kệ, nhưng không biết chữ, xin huynh viết lên giúp tôi được không?

Bài kệ của Huệ Năng như vầy:

Bồ-đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Đại ý, Bồ-đề - ví như thân - thật ra chẳng phải cây, tâm sáng như gương thì chẳng cần đài, bản chất đích thực “không là gì cả” thì lấy chỗ đâu cho bụi bám mà phải lo lau chùi!

Kệ của Thần Tú ở thể xác định, kệ Huệ Năng ở thể phủ định, hoàn toàn trái ngược. Khi hai bài kệ được viết gần nhau, đại chúng đều sửng sốt!

Ngay đêm đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà bếp tìm Huệ Năng.

- Ngươi biết vì sao ta không hỏi han chi tới ngươi trong tám tháng qua không?

Huệ Năng quỳ xuống:

- Đa tạ sự che chở của sư phụ, đệ tử đã biết.

- Tốt.

Và Tổ dùng gậy trúc, gõ xuống sàn ba tiếng, rồi thong thả đi ra.

Canh ba đêm đó, Huệ Năng tuân theo hiệu lệnh, lặng lẽ lên phòng Tổ. Cửa được đóng kín lại ngay sau bước chân. Dưới ánh nến lung linh, Ngũ Tổ cấp tốc giảng kinh Kim Cang cho người đệ tử không biết chữ. Huệ Năng đắc pháp ngay trong đêm, rồi được truyền quỳ gối, kính cẩn nhận Y Bát và lời chỉ dạy:

- Ngươi nay là Tổ thứ sáu, nhưng chưa thuận duyên để truyền giáo. Ngay đêm nay, ngươi phải lập tức lên đường, cố gắng bảo trọng thân mạng vì sự tranh giành Y Bát này sẽ xảy ra. Ta không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hãy đi ngay trước khi trời sáng.

- Bạch sư phụ, con từ xa tới, nay biết phương hướng nào mà đi đâu?

- Chớ lo, ta sẽ đưa ngươi một đoạn thuyền.

Đêm đó, trời không trăng nhưng đầy sao. Bến đò Cửu Giang vắng vẻ, u tịch, nhưng hương đêm lãng đãng, làn nhang trầm phảng phất từ tàng kinh các nào. Trong không gian huyền hoặc đó, con đò nhỏ tách khỏi bờ lau, trôi êm về phương Nam. Sao trời lấp lánh trên áo nâu sồng của một già, một trẻ, không nói lời nào mà đang trao truyền muôn vạn lời.

Chuyến đò rời nhánh sông Cửu Giang đêm ấy đã để lại cho chúng ta bao tặng phẩm vô giá từ tấm lòng nhị vị Đại sư. Con đò nhỏ chở đầy từ tâm, độ lượng của Ngũ Tổtrí tuệ, nhẫn nhục của Lục Tổ đã thành những trang Bảo Đàn kinh châu ngọc, dẫn dắt chúng sanh nhận ra “Bản lai vô nhất vật”.

“Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác thì bản lai của anh là gì?”

Đó là bài pháp đầu tiên Lục Tổ độ cho người toan ám hại mình để giành Y Bát.

Sau đó, suốt mười lăm năm sống ẩn dật với đám thợ săn vì biết chưa hội đủ thuận duyên hoằng pháp, nhưng mười lăm năm đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng đã phương tiện, độ cho bọn người chỉ biết một cách duy nhất để tìm thực phẩm là săn bắn.

Khi duyên đã đủ, Lục Tổ rời rừng núi, tìm đến chùa Pháp Tánh tỉnh Quảng Châu, nơi pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Hôm đó, trời nhiều gió làm lay động những màn, phướn treo quanh giảng đường. Lục Tổ nghe thấy hai vị Tăng đối thoại, người thì bảo “gió động”, người kia nhất định không phải gió, mà là “phướn động”.

Khi ấy, Lục Tổ đến bên, nhẹ nhàng bảo:

- Không phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà là tâm quý vị động đó thôi.

Vừa nghe như thế, hai vị Tăng bỗng ngộ.

Đó là bài pháp thứ hai mà Lục Tổ dạy cho chúng sanh. Giai thoại này lập tức đến tai pháp sư Ấn Tông đang ngồi trên tòa cao giảng kinh. Pháp sư cho mời người thanh niên có dáng vẻ nghèo nàn, lam lũ đó tới gần. Khi biết Huệ Năng từ Hoàng Mai đến, pháp sư hỏi:

- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn dạy ông những gì?

- Chỉ luận về sự “thấy tánh”.

- Còn thiền địnhgiải thoát thì sao?

- Đó là hai pháp nên chẳng phải Phật pháp vì nếu đích thực Phật pháp thì phải là pháp không hai.

Pháp sư Ấn Tông chưa hiểu kịp, bèn khẩn khoản:

- Xin ông dạy rõ hơn.

- Tỉ như thiện cănhai mặt: thường, hoặc vô thường. Tỉ như Uẩn và Giới, kẻ phàm phu phân biệt là hai, khi liễu ngộ mới thấy tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai Chính Là Phật Tánh, là thể trong suốt, chẳng thường cũng chẳng vô thường nên không hề bị đoạn lìa. Phật tánh đó, chúng sanh hoặc nhận ra, hoặc chưa nhận ra chứ không thể lưng chừng như ác lẫn thiện, đẹp lẫn xấu.

Đó là bài pháp thứ ba, Lục Tổ tuyên giảng khi chưa chính thức đăng đàn thuyết pháp.

Chính ba bài pháp đầu tiên này là nền tảng cho pháp môn Vô Niệm, mà Lục Tổ Huệ Năng đã hết lòng truyền dạy lại cho môn đồ, tứ chúng, để sớm nhận ra điều quan trọng, rốt ráo mà chư Phật bao đời đã khổ công mong chúng sanh đạt tới. Đó là, Nhận Ra Được Phật Tánh Của Mình.

Đa tạ tuệ nhãn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã nhìn suốt “kỳ tâm” của người thanh niên đất nghèo khổ Lĩnh Nam để hậu sinh được có Lục Tổ Huệ Năng.

Đa tạ con đò canh ba năm xưa, đã “Ưng vô sở trụ”, xuôi êm giòng pháp diệu kỳ để tròn đầy huyền nghĩa câu kinh lóng lánh Kim Cương: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 31


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2361)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1957)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2073)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2263)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2542)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2566)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2101)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2549)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1886)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1994)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2275)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2795)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1716)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1621)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1816)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1653)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2229)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2394)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2097)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1884)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1796)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1981)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1713)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2713)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1862)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2192)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2160)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2514)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1818)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2005)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1875)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2049)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2627)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3712)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2299)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2297)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1685)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1995)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2333)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2328)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2167)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3134)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2149)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2540)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2054)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1988)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2197)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2502)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2064)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2461)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant