Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Nhẫn nhục

13 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4996)
3. Nhẫn nhục

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV. SÁU BA-LA-MẬT

3. Nhẫn nhục

Đức nhẫn nhục, cũng như đức bố thí và đức trì giới, rất cần cho nhà đạo. Lắm người cũng nhờ nhẫn nhục mà mau thành Phật. Trong khi người tu thực hành bố thí đặng trừ tánh tham lam bỏn sẻn, thực hành trì giới đặng trừ tánh tà ác, thì người thực hành nhẫn nhục trừ được tánh nóng nảy, sân hận. Sự nhẫn nhục cũng tiếp tay mà giúp cho người được thanh tịnh, yên ổn, khoái lạc, giúp cho người mau thành tựu trên đường huệ. Sự nóng nảy bất cập làm cho con người xa nẻo phải; sự giận hờn làm cho con người phải thô lỗ; sự xao xuyến, oán thù làm cho con người bối rối, chẳng yên và tâm trí bấn loạn, ngu mê. Ấy là một thứ lửa độc đốt cháy mất các tánh tốt của ta. Sự nhẫn nhục làm cho con người an hòa, tỉnh táo, giữ được mức vừa phải, trung bình. Sự nhẫn nhục làm cho con người nhã nhặn, trầm tỉnh mà đối phó với hoàn cảnh. Sự nhẫn nhục làm cho con người hòa hoãn, mực thước, tự nhiên, minh mẫn mà nhìn rõ sự vật. Ấy là một thứ nước lành, tưới tắt ngọn lửa độc. Biết bao sự việc bởi nóng nảy, gấp rút mà chẳng thành; bởi sự giận hờn ganh ghét mà ngưng dứt; bởi sự bối rối phiền não mà hư hại!

Biết bao việc nhờ nhẫn nại mà hoàn thành, nhờ nhịn nhục mà sống còn, và nhờ trầmtỉnh, nhu hòa mà kết quả tốt đẹp! Những nhà tu hành mà có nhẫn thì bao nhiêu việc khó đều hóa ra dễ, bao nhiêu việc nghịch đều hóa ra thuận, bao nhiêu việc nguy đều hóa ra an.

Từ xưa đến nay, các nhà đạo đều để gương nhẫn nhục thành tựu lại cho đời. Cái gương cao viễn hơn hết là đức Thích-ca Mâu-ni. Chư độc giả hãy tưởng tượng một người ngồi giữa trời trong cơn lạnh lẽo, mưa gió, nhằm tiết đông giá buốt. Ngồi ngày này đến ngày kia, tháng kia qua tháng nọ. Trong khi ngồi yên chẳng động, thì chim câu bay xuống mổ hết cơm để trong bình bát, bầy trẻ lấy đá, lấy đất mà ném vào mình, và muỗi mòng chích cắn tứ tung. Ở đời có ai chịu nỗi cảnh ngộ như vậy không? Đức Thích Tôn vì quá sức lướt các nỗi khổ, cái thân của ngài sắp chịu không nổi, thì sức thần của ngài phải xông ra mà phụ trợ, bấy giờ thần rắn mới hiện ra mà bao phủ, chở che cho ngài. Nhờ sự nhẫn nhục quá thể đó, ngài thành Phật Như Lai, Thầy chung của thánh, tiên, thần, người.

Chẳng những ở một một đời thành Phật, ngài nêu gương nhẫn nhục, mà trong bao đời đã qua, ngài đã từng tu hạnh nhẫn nhục và đắc nhẫn nhục Ba-la-mật. Trong những khi ấy, chẳng những ngài không oán hờn kẻ ác tâm cố ý hại mình, ngài lại còn đem lòng từ bi mà độ họ nữa! Như thuở xưa, trước khi thành Phật đến năm trăm đời, ngài làm một vị tu sĩ trên núi cao, nhân thành tựu đức nhẫn nhục, mà người đời gọi là nhẫn nhục tiên. Thuở ấy, ngài ngồi thiền nơi một cội cây trong rừng. Vua Ca-lỵ, một vị vua hung bạo và say mê ngũ dục, dắt đoàn cung phi ra khỏi hoàng thànhdu ngoạn. Trong khi vua đương hưởng sự vui thích, nhiều cô thể nữ tách vua mà đi dạo, đến cội cây và gặp vị tiên nhân. Các cô làm lễ ngài, ngài bèn thuyết pháp cho các cô nghe. Chợt vua hiện lại, sanh lòng sân hận, vấn nạn vị tiên nhân, rồi dùng dao bén mà cắt tai ngài, cắt mũi ngài, chặt tay chân ngài. Lúc ấy, Bồ-tát vẫn thản nhiên, chẳng hề biến sắc, không một mảy may sợ sệt, oán hờn. Bấy giờ, quần thần chứng kiến sự tàn bạo của vua, họ ngăn cản chẳng được, thảy đều rơi nước mắt. Các cô thể nữ cũng ôm mặt mà khóc, chẳng dám nhìn! Từ trên không trung, chư thiên ném xuống những cát, gạch, đá như mưa trút, để tỏ lòng phẫn uất của các ngài.

Ca-lỵ vương lấy làm sợ sệt và hối ngộ, bèn đến trước đức Bồ-tát, làm lễ cầu sám hối. Vị tiên nói rằng: “Đại vương! Ta chẳng có lòng giận, cũng chẳng có lòng tham.”

“Bạch Đại đức! làm sao tôi biết chắc rằng ngài chẳng có lòng giận hờn?”

Đại tiên liền phát nguyện rằng: “Nếu thật ta chẳng có lòng giận hờn, nguyện cho thân thể ta bình phục như cũ, đặng làm chứng cho lời của ta!”

Liền đó, thân của vị tiên bình phục và ngài thuyết pháp độ vua.

Lại còn gương nhẫn của đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Vì muốn tiện độ đời, ngài thường giáng trần, nêu gương từ bi nhẫn nhục đặng cho chúng sanh hồi tâm hướng thiện. Hóa sanh làm bà công chúa Diệu Thiện, con vua Trang Vương, công chúamộ đạo, chẳng thuận ý cha mà bị đày ải, hành hạ khổ sở. Thân ngọc ngà của công chúa phải đi tưới vườn, gánh nước, lang thang lướt thướt ngoài đồng, mà tâm của bà chẳng hề xa Phật. Từ bi, nhẫn nhục, bà đành cam các nỗi khổ để cầu cho cha bỏ tà theo chánh và đặng độ cho bá tánh nhân dân!

Hóa sanh làm Thị Kính, cam chịu hàm oan, ngài tách xa chồng mà nương mình nơi cửa Phật. Bấy giờ giả trai, tưởng đâu yên nơi mà tu niệm! Nào ngờ bị gái trắc nết phao vu rằng ngài tư tình với nó mà sanh con. Ngậm sầu nuốt thảm, ngài nhận lãnh đứa con của nó. Ngài phải bị làng xã chê bai, đánh đập, bị dân chúng ngạo báng, chửi bới, bị chư tăng ruồng rẫy, khinh khi. Đến chừng ngài tịch, chúng mới nhận ra ngài là phận đào thơ liễu yếu, đã chịu oan nỗi chồng khờ, lại thọ uổng nỗi gái dâm, mà không hề biện bạch! Cao thượng thay gương kiên nhẫn của đức Bồ-tát! Vậy có câu rằng:

“Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu!”


Và đức Nhật Liên Bồ-tát, giáo tổ Pháp Hoa tông cũng là một gương nhẫn nhục vẹn toàn. Vì yêu đạo lý và muốn truyền pháp giúp đời, giáo tổ bị ngược đãi, bị phá khuấy, bị đánh chửi, nhục mạ. Ngài lại bị đày đến nơi hoang đảo, nơi chốn ma thiêng nước độc, bị tù tội mấy phen. Cho đến ngài bị đem ra pháp trường mà xử trảm. Song lòng nhẫn của ngài chẳng lung lay. Rốt cuộc ngươi ta phải phục tùng ngài và nhìn nhận giáo lý của ngài. Cho đến nay, ghi nhớ công đức ngài, mỗi năm dân tộc Nhât Bản đều có làm lễ kỷ niệm ngài.

Trong các Kinh Phật, đều có dạy người ta tu đức nhẫn nhục để độ mình và độ người. Đối với mọi sự khổ nơi thân và tâm, mà tự mình chẳng nhẫn chịu, còn sanh lòng buồn giận oán ghét, thì làm sao mà độ chúng sanh ra khỏi dòng sông phiền não?

Ở đời, hằng có ba cơ hội để rèn luyện, để chứng minh đức nhẫn nhục của mình. Ấy là: 1. Thân nhẫn, 2. Khẩu nhẫn, 3. Ý nhẫn.

1. Về thân nhẫn, như có ai đánh đập mình, phá hại mình thì mình an nhiênchịu đựng. Như những nhà thế lực dùng oai quyềnthi thố với mình, mình chẳng một mảy giận hờn! Kìa, vua A-xà-thế nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa, thả voi dữ ra để chà đạp Phật, thế mà Phật thuyết pháp độ vua phát tâm Bồ-đề! Lại chính Đề-bà-đạt-đa lăn đá hại Phật, làm cho Phật đổ máu nơi chân, thế mà Phật vẫn tha thứ cho!

2. Về khẩu nhẫn, như có kẻ đến chửi mắng mình, mình lặng thinh mà chẳng chửi mắng lại. Như có kẻ dùng lời phi lýchê trách mình, mình sẽ dùng lời nhu hòa mà giải lẽ phải cho họ nghe. Như có kẻ ngang ngược vu cáo mình, mình sẽ mặc nhiên. Kìa đức Phật khi xưa đang giảng kinh, có một cô gái vào pháp hội mà vu oan rằng ngài ăn ở với nó đến có thai. Ngài vẫn cười. Có nhiều người nơi ấy đòi đánh cô, nhưng Phật cản lại!

3. Về ý nhẫn, như có ai giận mình, ghét mình, oán mình, mình vẫn một lòng an lạc, ôn hòa. Như có ai cố ý khuấy rối mình, tâm mình chẳng hề tán loạn. Kìa đức Thích Tôn khi đi truyền đạo, sáu phái ngoại đạo bên Thiên Trúc hằng oán hận ngài, khuấy rối ngài, xúi giục dân chúng bỏ ngài. Thế mà ngài vẫn tha thứ cho họ, thường hay thuyết pháp độ họ nữa.

Vả lại, do đức nhẫn nhục, người ta mới biết phân biệt nhà tu hành sáng suốt với kẻ phàm tục mê muội. Kẻ ngu muội phàm tục, đối với sự đánh chửi, dầu đúng dầu sai, họ vẫn đem lòng hờn oán. Hạng tu hành, người nhân đức chẳng như vậy. Thoảng như mình có cớ để cho người ta đánh đập, chửi mắng, thì mình nên nhẫn chịu, dường như uống thuốc cam lộ! Đó là dịp để cho mình tu chỉnh lấy mình hầu có lìa khỏi sự lầm lỗi. Ví như mình vô can mà bị người ta đánh chửi một cách ngang trái, bị người ta phá hại một cách tàn bạo, thì mình nhẫn nại mà xét rằng: “Hiện nay mình vô tội. Nhưng có lẽ là nghiệp đời trước còn rơi lại, nên mới ra nông nỗi!” Hoặc là mình trầm ngâm nghĩ ngợi rằng: “Người ta vốn là tứ đại giả hiệp, vốn là ngũ uẩn vô thường. Thật chẳng có người. Như vậy, ai là kẻ đánh chửi? Ai là kẻ bị đánh, bị chửi?” Hay là mình hỷ xả mà xét rằng: “Kẻ ấy là người ngu dại, điên cuồng; và còn ở trong vòng tham lam, sân hận, si mê. Mình nên thương xót hạng người như vậy”.

Đức Phật có dạy rằng có ba phép nhẫn. Ấy là: 1. Sanh nhẫn, 2. Pháp nhẫn, 3. Vô sanh pháp nhẫn.

1. Về sanh nhẫn, đối với tất cả chúng sanh, dầu nhỏ như con muỗi, con kiến, con rệp mà chích, cắn mình, mình cũng không đem lòng giận mà hại mạng chúng nó; dầu lớn như loài người mà đánh đập mình, mắng chửi mình, phá hại mình, mình cũng không oán ghét mà báo thù. Đó gọi là sanh nhẫn, hữu tình nhẫn, cũng gọi là nại oán hại nhẫn.

2. Về pháp nhẫn, đối với cảnh vô tình làm trở ngại, nghịch hại mình, như nắng, mưa, gió, lạnh, bão lụt, hỏa hoạn, v.v... mình đều chịu được mà không giận trách, không than phiền.

Đó kêu là pháp nhẫn, phi tình nhẫn, cũng gọi là an thọ khổ nhẫn.

3. Về vô sanh pháp nhẫn, đối với chúng sanh phá hại mình, đối với các pháp làm khổ mình, mình coi là chẳng có.

Ấy nhờ mình xét thấy cái thật tướng của chúng sanh và của các pháp, vốn không sanh, không diệt, khi có, khi không, chẳng có cái thể tánh bền vững. Như chúng sanh chỉ là tứ đại, ngũ uẩn giả hiệp mà thôi. Còn các pháp chỉ là những nhân duyên kết cấu mà thôi. Xét như vậy, nhà đạo không còn chấp mình, chấp người, chấp chúng sanh, chấp các pháp. Đạt đến mức nhẫn ấy là đạt địa vị bất thối Bồ-tát, trong lòng hết mọi mối buồn, giận, lo, sợ. Nhân đó, đắc các phép thần thông độ thế của Bồ-tát. Như vậy là nhẫn nhục Ba-la-mật. Đó gọi là vô sanh pháp nhẫn, cũng gọi là Đế sát pháp nhẫn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19846)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20913)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19255)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21248)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41054)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24094)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23038)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17839)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26944)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20719)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33623)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21011)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12688)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19135)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17516)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19003)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18981)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18903)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33318)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38387)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31235)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18219)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24494)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19448)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17900)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23040)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18022)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32187)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17382)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17430)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16069)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18570)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20765)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18067)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20106)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14880)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20905)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15069)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15762)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12938)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14507)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14906)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29393)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12769)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14519)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant