BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần III:
Những bài
viết về thầy
- Ngày
nay vẫn như là ngày xưa - TT. Minh Thông
-
Tình pháp lữ - TT. Thiện Nhơn
-
Một nhành mai còn mãi - NT. Như Hoa
-
Khắp trời sen nở - NT. Tịnh Thường
-
Pháp lữ không xa - TT. Nguyên Thiện
-
Hoa xưa vẫn nở - TT. Tấn Đạt
-
Những đợt sóng - Thích Hoằng Dự
-
Pháp thân bất diệt - TN. Hạnh Ngọc
-
Ân sư - Thích Quảng Long
-
Tình huynh đệ - TN. Thánh Tâm
-
Còn mãi bóng hình - TN. Chúc Hiếu
-
Lời thầy không quên - TN. Huệ Nghiêm
-
Tấm gương tinh tấn - TN. Thánh Nhã
-
Thầy vẫn quanh đây - Vĩnh Tâm
-
Khóc và cười - TN. Diệu Liên
-
Người thầy thân thiết bao dung - T. Đức Châu
-
Thầy chánh chủ khảo - T. Hạnh Chơn
-
Hạnh nguyện lợi tha - Thích Trí Tài
-
Hành trang để lại - TN. Tịnh Nghiêm
-
Một phong thái ung dung - TN. Nhựt Bửu
-
Đời người & tâm nguyện - Phổ Tâm
-
Áo nâu còn mãi - Thích Minh Thuận
-
Pháp lữ đạo tình - Trần Quê Hương
-
Còn mãi - Ni trưởng Tịnh Hạnh
-
Vẫn rất gần - Huệ Hoàn
-
Còn đâu! - TN. Tâm Phúc
-
Lời thầy vang mãi - Huệ Liên
-
Nét buồn - Minh Nhẫn
-
Nhớ nắng ngày xưa - Thích Huyền Lan
-
Tang phấn - TN. Tâm Huệ
-
Hướng chân thầy - Thu Nguyệt
Ngày
nay vẫn như là ngày xưa
Thỉnh
thoảng tôi ngồi thật yên trong căn phòng nửa khuya, đốt
nến và trầm lên, rồi một mình uống từng ngụm trà nóng,
ấy chính là lúc tôi đang gặïp khó khăn từ bên ngoài dồn
dập tới. Tôi muốn đối diện với nó thật lâu, thật rõ
ràng để tìm cách chuyển hóa. Tôi ngồi đó và thầy Chơn
Thanh cũng ngồi đó. Thầy vẫn ngồi đó từ ngày xưa cho đến
bây giờ, ánh mắt hiền từ và nụ cười tươi mát vẫn không
có chút gì phai nhạt.
Thầy
không bao giờ bỏ tôi một mình trong những hoàn cảnh rối
ren, khó khăn. Thầy không uống trà đậm như tôi, chỉ cần
để thêm chút nước sôi vào cho tách trà dịu nhẹ hơn là
thầy có thể ngồi hằng giờ để nghe tôi chia sẻ. Thầy
kiên nhẫn lắm. “Thôi kệ ! không sao đâu! Chuyện gì rồi
cũng qua.” Ðó là câu “thần chú”ù mà thầy vẫn thường
“niệm” lên để trấn an cho tôi và cả thầy nữa.
Hai huynh đệ cùng thở, cùng uống trà, cùng trở về với
nội tâm để có thêm sự vững chải và kiên định. Có nhiều
lúc tôi và thầy ngồi yên lặng cả giờ. Cái không khí im
lặng uy nghiêm ấy đã nuôi dưỡng trong tôi biết bao nhiêu
niềm thương cảm và nể phục người bạn đồng hành. Có
rất nhiều tình thương và lòng bi mẫn trong trái tim thầy.
Thầy điềm đạm và nhu hòa quá. Nhiều lúc thầy không cần
phải trấn an tôi bằng những lời ái ngữ, mà chỉ cần sự
có mặt của thầy thôi là tôi đã cảm nhận được rất
nhiều sự bình yên. “ăn cơm có canh, tu hành có bạn”, tôi
may mắn được làm anh em sống chung với thầy. Cùng thở,
cùng ăn, cùng đi bộ, cùng làm việc... tôi thấy câu ngạn
ngữ trên thật là hay, có thật nhiều tuệ giác trong đó.
Thầy Quy Sơn có nhiều kinh nghiệm trong đường tu nên khuyên
người xuất gia nên chọn bạn một cách thông minh, “thân
phụ lương bằng” và “tuy bất thấp y, thời thời hữu
nhuận”. Tôi thì không đến đỗi phải đợi đi cuối con
đường mới nhận ra giá trị những ngày được sống cùng
với một huynh đệ như thầy. Nhiều đêm ngồi soi mình trong
gương nguyệt, tôi nhận diện rất rõ ràng sự có mặt quan
trọng của thầy trong tôi. Thầy đã đi vào trái tim tôi nhẹ
nhàng như một bàn tay ấm áp đặt lên vai giữa đêm đông
hành cước một mình. Thầy như một bát canh ngọt để giúp
những hạt cơm khô đi vào một cách dễ dàng và mềm mại.
Thầy đẹp và trong sáng như cái tên của thầy vậy.
Bây
giờ bên tách trà khuya một mình, tôi vẫn thấy thầy ngồi
đối diện đó. Ðang sẵn sàng lắng nghe những khó khăn trong
nội viện cũng như những nhiêu khê ngoài giáo hội. Ngồi
càng yên tôi càng nhận được nhiều tuệ giác từ nơi thầy.
Sáng hôm kia đi thiền hành, tôi bổng chợt mỉm cười vì
nhớ ra mỗi buổi sáng ngày xưa, hai anh em thường đi bên nhau
và trao đổi với nhau nhiều kinh nghiệm tu tập. Thuở ấy,
có những câu chuyện mà đến bây giờ tôi mới hiểu hết.
Tôi cười vì nếu ngày đó tôi hiểu ra thì chắc là tôi sẽ
ít trách hơn về tánh xuề xòa dễ dãi của thầy. Mà nếu
có trách, chắc thầy cũng lại cười xuề xòa thôi. Tôi biết
không chỉ riêng tôi mới nhận được những năng lượng tươi
mát ấy, các thầy, các sư cô đã từng được học và làm
việc chung với thầy cũng cảm nhận như tôi. Thầy đi rồi
họ khóc nhiều lắm. Họ còn trẻ quá nên có thể họ chưa
thấy được hết thầy đã đi vào chính họ như thế nào.
Thầy xuề xòa, ít hỏi han ai mà vẫn luôn có mặt bằng nhiều
hình thức, chính là đức tánh ưu việt của một người cha
như thầy. Nhiều người đã lo ngại cho tôi sẽ vất vả rất
nhiều sau khi vắng bóng thầy bên cạnh. Nhưng chỉ có tôi
mới hiểu rất rõ là thầy không bao giờ bỏ tôi. Cảm ơn
thầy đã làm bạn đồng hành với tôi, đã cho tôi thật nhiều
báu vật.
Thầy Thanh ơi! ngày xưa và ngày nay không có gì khác nhau trong
con người chân thật của thầy phải không? Thầy đã từng
đến đi thong dong, thì sau cuộc phân kỳ tạm bợ này, tôi
chắc thầy sẽ có chiếc báo thân đẹp lắm. Thầy không chọn
một cõi bình yên để tịnh dưỡng niềm an lạc một mình
đâu. Tôi chắc như vậy rồi, tại vì thầy thương tăng ni
trẻ lắm. Thầy sẽ tiếp tục có mặt với họ để giúp
họ với rất nhiều hoài bão chưa hoàn thành.
Tôi lại đốt nến, xông trầm và rót trà ra. Khi viết về
thầy với những dòng tâm sự này, tôi biết thầy cũng cười
xòa và trách tôi không chịu nói một lần trước mặt để
thầy có thêm năng lượng vì cuộc đời tu của thầy cũng
lắm nỗi gian truân, vất vã. Thầy hiểu tánh tôi kín đáo
mà, như lần này, tôi cũng không muốn viết về thầy như
vậy đâu. Tôi ý thức được ngôn từ không đủ diễn tả
hết tình huynh đệ đẹp đẽ của chúng ta. Tôi muốn để
tự nó tinh khôi như bản chất thật của nó, nhưng không viết
không được, các thầy và các sư cô trẻ rất muốn tôi chia
sẻ những tâm tình này để họ hiểu thêm về thầy, về những người mà họ yêu kính.
Có
những chuyện bây giờ mới rõ, nhưng mà ngày nay vẫn như
là ngày xưa, không hề khuyết giảm như vầng trăng phải không
thầy?!
Tách
trà thơm này không đắng lắm
Thầy
uống đi rồi thở cùng tôi
Kìa
chiếc lá mang mùa xuân tới
Bây
giờ, ngày ấy vẫn đầy thôi.
TT.
Thích Minh Thông
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.