Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Bộ não không thể hiểu rõ

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7356)
23. Bộ não không thể hiểu rõ

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

23

Bộ não không thể hiểu rõ

T

rong chừng mực nào đó, chết của Krishnamurti cũng huyền bí như sống của anh. Thật mỉa mai rằng, suốt phần lớn sống của anh bởi vì đã cảm thấy rằng ‘lẻn đi’ lại dễ dàng hơn sống, anh cứ tiếp tục sống trong khi anh lại ao ước ‘lẻn đi’. Anh đã tin rằng anh biết lúc nào anh sẽ chết, tuy nhiên chết của anh lại gây ra sự ngạc nhiên cho anh. Trong ghi lại cuối cùng của anh tại Ojai, khi anh nói về ‘những điều mê tín đáng sợ của người Ấn độ’, dĩ nhiên anh có ý niềm tin truyền thốngẤn độ rằng một con người thiêng liêng có thể định đoạt cho chính người ấy chết. K có thể yêu cầu được chết bằng cách rút ống dẫn thuốc bổ ra, nhưng anh cảm thấy việc đó sẽ là một vụ tự tử, một xúc phạm đến thân thể được giao phó cho trách nhiệm của anh – một ủy thác thiêng liêng. Nhưng tự định đoạt chết cho chính mình, nếu thành công, cũng là một hình thức của tự tử?

 K bày tỏ sự ngạc nhiên rằng ‘cái khác lạ’ lại muốn cư ngụ trong một thân thể bệnh tật; tại sao nó không buông bỏ anh ấy? Anh tự hỏi liệu bệnh tật của anh đã bị gây ra bởi việc gì đó mà anh đã làm sai trái. Người ta có lẽ hỏi, ‘cái khác lạ’ cho phép anh chết bởi vì thân thể của anh đã trở nên vô dụng, hay nó cho phép anh phát triển một căn bệnh gây chết người bởi vì không còn lại bất kỳ điều gì để anh phải nói, bởi vì lời giảng của anh đã hoàn tất? Rõ ràng trong cả hai trường hợp, ‘cái khác lạ’ đã không rời bỏ anh tại khúc cuối.

K tin rằng ‘cái gì đó’ đang quyết định điều gì nên xảy ra cho K, cái gì đó mà anh không được phép nói; tuy nhiên, cùng lúc, anh đang nói nó sẽ lạ thường làm sao nếu đã có cái gì đó đang quyết định mọi việc đã xảy đến cho K. Chắc chắn có một mâu thuẫn ở đây? Nhưng lại có những không bình thường khác trong những câu nói của anh về chính anh.

K không bao giờ nghi ngờ rằng anh đã luôn luôn được bảo vệ bởi cái gì đó. Anh được thuyết phục rằng không việc gì có thể xảy đến cho anh trong khi anh đang ở trên máy bay hay đi lại bằng bất kỳ phương tiện nào để nói chuyện, và rằng sự bảo vệ đó được mở rộng đến bất kỳ ai theo cùng anh. Dẫu vậy nó cũng là bổn phận của anh không được đặt anh vào bất kỳ tình thế nguy hiểm nào chỉ vì vui thú, như là chơi môn máy bay lượn. Anh không bao giờ ngờ vực về hoặc là sự quan trọng của lời giảng hoặc là sự quan trọng của thân thể được ủy thác cho anh chăm sóc. Anh còn tiến xa hơn nữa khi nói rằng đã phải mất nhiều thế kỷ mới sáng tạo được một thân thể như thế. (Nó luôn luôn là ‘lời giảng’, ‘thân thể’; không bao giờ là ‘lời giảng của tôi’, ‘thân thể của tôi’.) Dường như cả bên trong lẫn bên ngoài anh là sự huyền bí riêng của anh. Anh không muốn tạo tác một huyền bí; dẫu vậy một huyền bí đã tồn tại mà dường như anh hoàn toàn không có khả năng giải đáp cho chính anh, suy nghĩ rằng đó không phải công việc của anh để làm việc đó, mặc dù anh háo hức khuyên những người khác nên giải đáp nó, trong trường hợp đó anh sẽ có thể chứng thực sự giải đáp của họ.

K đã nói rằng lời giảng đến như ‘một thiên khải’, rằng nếu anh ngồi xuống để suy nghĩ về nó, nó sẽ không đến với anh, và tuy nhiên chắc chắn nó đến mỗi ngày khi anh đang viết quyển Notebook của anh. Điều gì bỗng nhiên thúc giục anh viết quyển Notebook? Ngoại trừ nội dung của nó, nó là một bản viết tay lạ thường, 323 trang không một vết tẩy xóa.

Từ những từ ngữ riêng của K người ta bị bắt buộc phải kết luận rằng anh là một ‘phương tiện’ cho cái gì đó và rằng do bởi cái gì đó này mà lời giảng đến với anh. Tuy nhiên, trong hầu hết sống của anh, anh được thẩm thấu cùng cái gì đó này đến độ nó anh, thậm chí khi nó rút lui, nó sẽ quay lại nếu anh nói chuyện nghiêm túc về nó hay tự cho phép chính anh cởi mở cùng nó, đặc biệt trong những thiền định vào ban đêm – không bao giờ mời mọc nó. Thỉnh thoảng anh ngạc nhiên khi nó ở đó, như khi anh đang diễn tả trong quyển Notebook làm thế nào anh đã chuyển từ sự thanh bình của Gstaad đến căn hộ tầng thứ tám ở Paris để nhận thấy rằng ‘ngồi yên lặng vào buổi chiều, nhìn qua những mái nhà . . . không mong đợi nhất, phước lành đó, sức mạnh đó, cái khác lạ đó đến bằng sự rõ ràng dịu dàng; nó tràn đầy căn phòng và vẫn ở đó. Nó ở đây khi điều này đang được viết.’ Tôi đã nghe người ta bàn bạc rằng cảm hứng của K không khác biệt gì với cảm hứng của bất kỳ nghệ sĩ nào khác, đặc biệt là nhạc sĩ; rằng giá như người ta cố gắng tìm ra thiên tài của Mozart đến từ đâu. Nếu lời giảng đến qua bộ não của K lập luận đó sẽ đứng vững, nhưng không thiên tài nào mà tôi đã biết đã từng trải qua bất kỳ cái gì giống như ‘cái tiến trình’.

Sự huyền bí của Krishnamurti sẽ tan biến ngay lập tức nếu người ta chấp nhận lý thuyết Chúa Maitreya tiếp quản cái thân thể được chuẩn bị cho ngài. Vậy thì mọi sự việc về ‘cái tiến trình’ sẽ trở nên rõ ràng – tất cả những thông điệp đó ‘được mang qua’ tại Ojai, Ehrwald và Pergine, và sự tin tưởng riêng của K rằng sự đau đớn là cái gì đó phải được chịu đựng mà không có bất kỳ nỗ lực nào để ngăn cản hay làm dịu bớt. Chất lượng độc nhất của hiện tượng sẽ được giải thích bởi thông điệp đó gửi cho Nitya ‘được mang qua’ tại Ojai: ‘Công việc đang được làm lúc này có tầm quan trọng vô cùng và sự tinh tế cực kỳ. Đó là lần đầu tiên thí nghiệm này được thực hiện trong thế giới.’

Chính K cũng không hoàn toàn bác bỏ lý thuyết này, giống như anh phủ nhận là Thầy Thế giới. Anh chỉ nói rằng nó ‘quá tồn tại ở dạng vật chất’, ‘không đủ mộc mạc’, và, thật ra, người ta có cảm thấy điều này về nó. Năm 1972, khi nói chuyện với nhóm người tại Ojai đã đặt ra câu hỏi anh là ai, anh trả lời: ‘Tôi cảm thấy chúng ta đang dò tìm vào vấn đề gì đó mà cái trí ý thức không bao giờ có thể hiểu rõ . . . Có cái gì đó, một nguồn dự trữ khủng khiếp như nó đã là, mà, nếu cái trí có thể thâm nhập, phơi bày cái gì đó mà không thần thoại thuộc trí năng nào – sáng chế, phỏng đoán, tín điều – có thể phơi bày. Có cái gì đó nhưng bộ não không thể hiểu rõ nó.’ Tuy nhiên, khi hai năm sau tôi vặn hỏi anh, anh nói rằng mặc dù anh không thể tự tìm ra về chính anh (‘nước không thể biết nước là gì’), anh ‘bảo đảm tuyệt đối’ rằng Mary Zimbalist và tôi và những người khác có thể khám phá sự thật nếu chúng tôi ngồi xuống và nói: ‘Chúng ta sẽ tìm hiểu’, nhưng, anh thêm vào, ‘các em phải có bộ não của các em trống không’.

Điều này dẫn chúng ta đến ‘cái trí trống không’. Suốt sự tìm hiểu của tôi, K cứ quay trở lại cái trí trống không ‘của cậu bé’ – một trống không mà, anh đã nói, anh đã không bao giờ mất. Cái gì đã giữ nó trống không? Anh hỏi. Cái gì đã luôn luôn bảo vệ sự trống không? Nếu chính anh đang viết về Huyền bí, anh sẽ bắt đầu bằng cái trí trống không. Những từ ngữ đó mà anh đã thốt lên chín ngày trước khi anh chết cũng đang ám ảnh tôi như bất kỳ điều gì anh đã nói: ‘Ước chi tất cả các em đều biết các em đã bỏ lỡ cái gì – trống không vô hạn đó.’

K khẳng định rằng Theosophy mà anh đã được nuôi dưỡng chưa bao giờ quy định được anh. Dẫu vậy, có thể rằng nơi tầng ý thức sâu thẳm bên trong anh đã bị quy định bởi nó (mặc dù anh đã không công nhận có một sự việc như tầng ý thức sâu thẳm bên trong), và rằng khi anh rời khỏi thân thể của anh tất cả mọi điều anh đã được bảo về Chúa Maitreya, Những Bậc Thầy, vân vân lại được xuất hiện? Nhưng điều đó sẽ không giải thích tại sao anh rời khỏi thân thể, tại sao ‘cái tiến trình’ luôn luôn xảy ra.

Một khía cạnh khác phải lưu ý là cái năng lượng rất thường xuyên đi vào anh hay đi qua anh. Khi anh đang nói nghiêm túc về anh là ai, anh thường nói, ‘Bạn có thể cảm thấy nó trong phòng lúc này – một rung động rộn ràng.’ Trong cuộn băng cuối cùng của anh được thâu lại, anh nói, ‘Tôi không nghĩ người ta nhận ra cái năng lượng vô hạn và thông minh tột đỉnh đã đi qua thân thể này đến mức độ nào…’ Khi tôi nghe những từ ngữ đó trên một băng cát-xét ngay lập tức tôi nghĩ về quyền năng, sức mạnh, mà đã ùa ra ập vào tôi qua cái cửa phòng khách tại Brockwood buổi chiều đó khi tôi đang ít mong đợi nó nhất. Nếu sức mạnh đó, ‘năng lượng khủng khiếp’ đó, đã sử dụng liên tục thân thể của K từ lần đầu tiên ‘cái tiến trình’ bắt đầu năm 1922, sẽ rất kinh ngạc khi anh có thể sống lâu đến thế. Năng lượng đó là ‘cái khác lạ’? Có phải năng lượng đó gây ra sự đau đớn của ‘cái tiến trình’? Năng lượng, ‘cái tiến trình’, tiếp tục từ 1922 đến suốt phần còn lại thuộc sống của anh bằng một lượng giảm bớt dần dần của đau đớn chỉ bởi vì thân thể của anh đã từ từ thông thoáng để tạo ra trống không nhiều thêm nữa? Năng lượng mà đi qua anh khi anh già yếu sẽ giết chết anh bằng sức mạnh của nó nếu nó ập vào anh toàn bộ cùng một lúc trước khi thân thể đã được làm cho hòa hợp để thâu nhận nó?

Bây giờ tôi nghĩ người ta phải hỏi: K biết nhiều về anh là ai và là gì hơn những điều anh đã tiết lộ? Khi anh bảo với Mary Zimbalist và tôi rằng nếu chúng tôi có thể tìm ra sự thật, anh sẽ có thể chứng thực nó và rằng chúng tôi sẽ có thể tìm ra những từ ngữ diễn tả nó, anh đang thực sự nói, ‘Anh không được phép nói cho các em nhưng nếu các em có thể tự tìm ra cho chính các em, lúc đó anh có thể nói, “Đúng rồi, đó là nó”’? Có lẽ điều quan trọng nhất mà anh đã từng nói là với Mary, khi chị hỏi anh trước khi anh rời Brockwood để đi Delhi vào cuối tháng mười rằng liệu chị sẽ gặp lại anh: ‘Anh không chết đột ngột đâu . . . Tất cả đều được quyết định bởi người nào đó. Anh không thể nói về nó. Anh không được phép nói, em hiểu chứ? Nó nghiêm túc ghê lắm. Có những sự việc mà em không hiểu được đâu. Khủng khiếp. Và anh không thể nói cho em.’ (Tất cả đều được quyết định bởi ‘người nào đó’, lưu ý, không phải ‘cái gì đó’.)

Vậy là có những việc K biết về chính anh mà anh đã không bao giờ tiết lộ, mặc dù anh đã vén một góc màn trong cuốn băng cát-xét cuối cùng đó.

Nhiều người sẽ cảm thấy rằng bất kỳ nỗ lực nào để giải đáp sự huyền bí của Krishnamurti không chỉ là một lãng phí thời gian mà còn hoàn toàn không quan trọng; chính là lời giảng mà phải quan tâm, không phải con người. Nhưng đối với bất kỳ người nào đã biết Krishna lúc còn bé và tham gia vài biến cố ban đầu và không thể chấp nhận rằng lời giảng đã phát triển trong bộ não riêng của anh, một nghi vấn trêu ngươi trước mặt sẽ vẫn còn bị ám ảnh nếu, có lẽ, người ta không thể thành công trong làm trống không bộ não riêng của người ta. K đã nói, ‘Cái đó ở trong phòng. Nếu bạn hỏi nó nó là gì, nó sẽ không trả lời. Nó sẽ nói, “Bạn quá nhỏ nhoi”.’ Vâng, đó là cảm giác hèn mọn mà người ta bị bỏ lại; người ta quá nhỏ nhen, quá tầm thường, kèm theo một bộ não mãi mãi huyên thuyên.

Hoàn toàn giống nhau, K đã nói trong cuộn băng cuối cùng: ‘Tất cả họ sẽ giả vờ hay cố gắng tưởng tượng rằng họ đã tiếp xúc với cái đó. Có lẽ trong chừng mực nào đó họ sẽ, nếu (chữ in nghiêng của tôi) họ sống cùng những lời giảng.’

Nhưng, bỏ qua nguồn gốc của nó, lời giảng của Krishnamurti đã có mặt tại một khoảnh khắc nghiêm trọng trong lịch sử của thế giới. Như có một lần anh đã nói với một phóng viên ở Washington: ‘Nếu con người không thay đổi triệt để, từ cơ bản không tạo ra một thay đổi trong chính anh ấy, chúng ta sẽ tự hủy diệt chính chúng ta. Một cách mạng tâm lý chỉ có thể được ngay lúc này, không phải một ngàn năm sau. Chúng ta đã qua hàng ngàn năm rồi và chúng ta vẫn còn là những con người man rợ. Vì vậy nếu chúng ta không thay đổi ngay lúc này, chúng ta sẽ vẫn còn là những con người man rợ ngày mai hay một ngàn ngày mai nữa.’ Sau đó nếu người ta hỏi: làm thế nào sự thay đổi của một người có thể ảnh hưởng thế giới?, chỉ có câu trả lời riêng của K giải đáp: ‘Thay đổi và thấy điều gì xảy ra.’

 

(Dịch xong 7-2009)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10182)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13567)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13706)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22175)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21835)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17764)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11717)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12315)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25232)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23255)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28558)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22747)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13419)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22436)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26328)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18448)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34477)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27344)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28364)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10611)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18555)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15656)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13173)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14014)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11784)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11622)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11877)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19931)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12383)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13935)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13267)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31928)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13424)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13321)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21840)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11083)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12888)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant