Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Đền Jokhang

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 10232)
05. Đền Jokhang
MÙI HƯƠNG TRẦM
Nguyễn Tường Bách
(Ký Sự Du Hành Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng)

PHẦN THỨ TƯ
TÂY TẠNG HUYỀN BÍ

ĐỀN JOKHANG 

Lhasa nằm trên bờ bắc của sông Kyi Chu, đó là một của vô số dòng sông con chảy về Yarlung Tsangpo. Ngày xưa vua Tùng-tán Cương-bố dời đô từ lũng Yarlung về đây hẳn có nhiều nguyên nhân huyền bí ta không hiểu hết. Ngày nay người ta chỉ còn nhắc lại lời công chúa Văn Thành, nàng cho rằng địa thế của Lhasa giống như bánh xe chính pháp của Phật, nàng là người Hán tộc mà biết quí trọng kinh thành thiêng liêng này biết bao. Nhưng lịch sử mỉa mai thay, ngày hôm nay, cũng những người Hán đang ngự trị và biến Lhasa, vốn được mệnh danh là "thành phố của chư thiên", thành một đô thị thế tục bình thường. Nhưng thôi, tôi không muốn lòng mình bực dọc. Tôi phải chuẩn bị cho mình một tâm thức tương ứng để đến tham bái vị "Đức hạnh cao quí" trong đền Jokhang. 

Khách sạn tôi ở cách trung tâm Lhasa chừng 4km về phía tây. Xe chạy theo đường "Bắc Kinh đông lộ" để đến khu vực Barkhor. Barkhor không gì khác hơn là chợ của người Tây Tạng, đó là một khu bazar với vô số hàng quán bán đồ lưu niệm, trái cây, thức ăn, hàng tạp hóa, tranh tượng...Đến Barkhor là đến khu vực của người Tây Tạng, đây là nơi người dân bản xứ tụ họp chuyện trò, nghỉ chân, phơi nắng. Bakhor cũng là nơi mà khách địa phương hay nước ngoài ai cũng đến, do công trường này nằm ngay trước đền Jokhang. Trong ngôi đền này là bức tượng thiêng liêng nhất Tây Tạng, bức Jowo Rinpoche mà tôi tự đặt tên là "Đức hạnh cao quí" hay "Bức tượng biết nói", dựa trên câu chuyện tôi đã kể trong một chương trước. 

Người ta dễ ngạc nhiên về vị trí của đền Jokhang. Thông thường tại Tây Tạng, các tu viện đền đài nằm trên đồi núi cao, làng xóm ở dưới thung lũng và thực tế là các tu viện sau này tôi đi thăm cũng như thế thật. Thế nhưng Jokhang nằm ngay giữa chợ! Tiếng ồn của chợ búa sẽ làm phiền các vị giác ngộ? 

Đến chợ Barkhor khách sẽ bị kêu réo mời chào, những tiếng gọi "cheaper, cheaper" bằng tiếng Anh đơn giản cứ đập vào tai những du khách như tôi. Dù mặt tôi xem ra là mặt người Hán nhưng vì vai mang ba-lô, tay xách máy hình nên ai cũng tìm cách bán tranh tượng. Nhưng không, tôi nhất định đi thẳng vào đền, đảnh lễ Tất-đạt-đa trước khi có một hoạt động mua bán nào. Vừa gần đến đền tôi gặp một đoàn người Tây Tạng. Tới đây thì may thay, không ai thèm ngó ngàng gì đến tôi, những kẻ hành hương sùng tín đó chân đi chậm rãi, tay quay mani, miệng rì rầm cầu nguyện.

Đó là đoàn người đi đảnh lễ như tôi, họ là "tăng", bạn hữu của tôi, là một trong tam bảo. Ôi, đáng quí trọng thay, đoàn người cùng đi đảnh lễ Đức Thế Tôn, họ đi quanh đền theo chiều kim đồng hồ. Vách tường bên ngoài đền đỏ thẩm, đúng màu truyền thống của tu viện. Đến bên vách ngoài phía đông của đền mà bên trong là bức tượng Jowo, khách quì lạy vị Đức hạnh cao quí mà chưa cần nhìn thấy bức tượng. Họ nằm dài trên mặt đất để biểu lộ sự khiêm cung nhẫn nhục. Nhẫn nhục là một trong sáu hạnh ba-la-mật, tôi thầm nghĩ. 

Đền này do công chúa Bhrkuti xây dựng, nàng là vợ của vua Tùng-tán Cương-bố. Tương truyền rằng chỗ xây đền ngày xưa là hồ nước mà lại là trái tim của một ma nữ, nó là người ngăn cản không cho ai được xây dựng bất cứ chốn thờ phụng nào. Rồi cũng lại công chúa Hán tộc Văn Thành là người hiểu phong thủy và trấn được cuộc đất này. Nàng ném vào đó chiếc nhẫn mình hay đeo và ra lệnh cho dê chở đất đổ vào hồ và chỉ loài dê mới được làm công việc đó. Theo tiếng Tây Tạng, dê là "Ra", là linh vật của thần hộ pháp Damcen, đất là "Sa".

Từ đó mà chốn này mang tên Rasa, dần dần biến thành Lhasa, tên gọi ngày nay của kinh thành. Cho nên ta có thể xem công trình Jokhang là gốc của Lhasa. Từ năm 642 đến năm 653 ngôi đền này được xây dựng bằng những bàn tay của nghệ nhân Nepal. Trong ngôi đền đó, bức tượng Bất Động Như lai của Bhrkuti mang theo được thờ. Còn nàng Văn Thành cũng xây một ngôi đền khác gần đó và thờ tượng Jowo, đền đó ngày nay cũng còn, tên gọi là Ramoche. Chẳng bao lâu sau, để tỏ tình đoàn kết, hai nàng đem đổi chỗ của hai bức tượng và từ đó Jowo được thờ tại Jokhang. 

Nhưng do đâu nàng Văn Thành lại có bức Jowo, đó là điều đã nằm trong bóng tối của lịch sử. Theo một truyền thuyết thì bức tượng Jowo được vị thiên thần Ấn Độ chủ về nghệ thuật tên gọi là Vishvakarma tự tay tạo dựng lúc đức Phật còn sống. Bức tượng này đến Trung Quốc là do A-dục vương biếu tặng trong quá trình ông truyền bá đạo Phật trong thế kỷ thứ 3 trước công nguyên

Tôi vào cửa đền thì đến một cái sân vuông với vô số đèn. Những chiếc đèn cháy bằng mỡ trâu này toát ra một cái mùi kỳ lạ. Bên cạnh dàn đèn là một chiếc bàn thấp với khoảng mười vị lạt-ma đang tụng kinh. Gần đó là cổng chính của đền, vào trong đó tôi sẽ thấy bức tượng Jowo mà tôi không bao giờ ngờ mình sẽ được chiêm bái. Nhưng tôi chưa vội vào và đi theo một đoàn người đi vòng ngôi chính điện theo chiều kim đồng hồ và quay tất cả các mani bằng đồng. 

Đền Jokhang là một tòa kiến trúc gồm có 4 tầng, mái mạ vàng, phần lớn các tranh tượng đều ở tầng một. Tổng thể diện tích của đền khoảng trên 25000 mét vuông, được chống đỡ bằng những cột gỗ, những cột này đều từ thế kỷ thứ bảy còn lại cho đến ngày nay. Sau khi đi ba vòng, tôi bước vào chính điện hình vuông qua một khung cửa gỗ. Cửa này cũng là bản gốc, có xuất xứ từ 13 thế kỷ trước. Vào đền tôi chầm chậm đi quanh theo chiều kim đồng hồ. 

Đền nóng vì các ngọn đèn, dưới chân tôi rin rít mỡ trâu. Những bức tượng đầu tiên đầu tiên là vị hộ pháp Palden Lhamo với cặp mắt to tròn. Ngày trước có thể đó là những vị ác thần, ma quái đã được hàng phục và sẵn sàng hỗ trợ chính pháp. Đó chính là chủ trương của Liên Hoa Sinh và đặc trưng của Phật Giáo Tây Tạng. Sau đó là bức tranh diễn tả cảnh dê chở đất đổ xuống hồ, minh họa lịch sử hình thành ngôi đền. Trong một khám thờ khác là một bức tượng tuyệt đẹp của Quán Thế Âm ngày tay ngàn mắt mà người Tây Tạng gọi là Chenrezi. Bức tượng này thì ngay cả Trung Quốc cũng ít nơi sánh kịp. Qua nhiều khám thờ với tranh tượng của Milarepa, của Tùng-tán Cương-bố, tôi đến vách phía đông của đền, đứng trước tượng Jowo, nín thở. 

Tôi không biết mình đã dùng cặp mắt gì để nhìn tượng, cặp mắt tôn giáo hay nghệ thuật hay khách quan nhìn ngắm và phân tích. Tôi không biết và không cần biết. Đó là một bức tượng tuyệt hảo. Đức Thích-ca với khuôn mặt vàng sáng rực, nhìn xuống, đầu đội vương miện năm trí. Có lẽ đúng, bức tượng này do thần Vishvakarma, chủ nghệ thuật, tự tay tôn tạo. Khám thờ Jowo "Đức hạnh cao quí" ngày nay đã được ngăn bởi một lớp song sắt, ta đứng ngoài có thể nhìn vào nhưng không thể đụng tới. Chàng Ben của tôi ngày xưa có thể nhờ tượng giữ mũ giữ áo nhưng ngày nay tôi chỉ có thể nhìn ngắm. Đứng trước bức tượng này là đã bao thế hệ tu sĩ và khách hành hương. Tôi nhìn bộ khăn quàng trên đầu tượng, nghe nói đó là của Tông-khách-ba tự tay làm lấy. Áo choàng cho tượng là của một nhà vua đời Minh cúng dường

Tôi nhìn tượng bối rối. Tôi mang nhang từ ngoài vào nhưng ở đây tôi không có chỗ cắm, lớp song sắt đã ngăn tôi với tượng. Jowo từ bi nhìn tôi hầu như nói "không sao", tôi đành kẹp cả bó nhang vào một hốc bên cạnh và quì lạy bức tượng trên nền nhơm nhớp mỡ trâu. Trong các đền Tây Tạng không có thùng đựng tiền bạc bố thí mà khách chỉ việc để vương vãi khắp nơi, đó là điều tôi thấy kỳ lạ. Tôi không biết làm sao hơn là thò tay thật xa vào song sắt và thả xuống đất một tấm giấy bạc cúng dường. Trong đó người ta cũng đã bố thí nhiều, có thể lấy chổi mà quét. 

 

blank

Rời Jowo tôi đi chiêm bái tiếp các tranh tượng khác trong đền như của Liên Hoa Sinh nhưng lòng cứ nghĩ đến tượng. Sắp ra khỏi đền, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ trở lại Lhasa, mỗi lần đến đây là mỗi lần khó và có ai nói được gì về tương lai. Người Tây Tạng chẳng hay nói, kiếp sau của bạn có thể tới trước ngày mai. Tôi quày quả đi lui đến trước tượng Thích-ca, đảnh lễ Ngài một lần cuối. Lúc tôi vừa từ nền đất rin rít mỡ trâu đứng dậy thì đèn trong đền vừa tắt, tôi nhanh chân đi ra cửa gỗ, là người cuối cùng ra khỏi đền. Lúc đó là 6 giờ chiều, giờ đóng cửa Jokhang. 
 

[1] - Có nơi ghi là "Jobo". Từ Tây Tạng phiên âm ra tiếng la-tinh thường thường mỗi nơi mỗi khác 
[2] - Trích "The snow lion’s turquoise mane" của Surya Das, bản dịch "Sư tử tuyết bờm xanh" của tác giả, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh, 1999 
[3] - Tùng-tán-cương-bố. Có tài liệu cho rằng ông sinh cuối thế kỷ thứ 6 và mất năm 650, thọ 82 tuổi 
[4] - Xem Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 
[5] - Aksobhya 
[6] - Tu-yu-hun, bộ lạc ở bắc Trung Quốc 
[7 ] - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 
[8 ] - Xem chương "Nhân kiệt không đời nào thiếu" trong phần thứ ba 
[ 9 ] - 1894-1984 
[10] - Theo "The door of liberation" của Geshe Wangyal. Chuyện này được Đạt-lai lạt-ma thứ 14 nhắc lại trong "The Dalai Lama at Harvard" của Hopkins 
[11] - Xem chương "Con sông thiêng" trong phần thứ nhất 
[12] - Hán Việt: Ngật-lật-sang Đề-tán (khoảng 740-798) 
[13] - Santaraksita (750-802) 
[14] - Vikramasila 
[15 ] - Padmasambhava (sống khoảng cuối thế kỷ thứ 8) 
[16 ] - Uddiyana, ngày nay thuộc về Pakistan 
[17 ] - Nyingmapa 
[18] - Terma 
[19] - Samye 
[20] - Theo H.W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Munich 1986 
[21] - Theo Lịch sử Phật giáo thế giới của Thánh Nghiêm, Nhà xuất bản Hà Nội 1995 
[22] - Kamalasila 
[23 ] - Vajrapani 
[24 ] - Hán Việt: Cát Tường Kim Cương 
[25 ] - 958-1055 
[26] - Atisa, 982-1054 
[27] - Bodhipathapradipa 
[28] - Tsong-kha-pa (1357-1419) 
[29] - Gelugpa, có khi được gọi là phái Hoàng mạo (mũ vàng) 
[30] - Govinda, sách đã dẫn 
[31] - Sangharakshita, Tibetan Buddism" của Sangharakshita, Windhorse Publication 

TỔ TIÊN TÂY TẠNG

Nếu ngày trước Govinda hay David-Néel đi Tây Tạng rất khổ nhọc thì ngày nay người ta đến xứ này tương đối dễ dàng, nhất là thủ đô Lhasa. Khách có thể từ Kathmandu, thủ đô Nepal, bay đi Lhasa, mỗi tuần hai chuyến. Nhưng cách đi hay nhất là đến Thành Đôâ, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, từ đây khách có thể dễ dàng đi thăm viếng Tây Tạng. Muốn đến Thành Đô ta có thể lấy máy bay từ Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng tiện nhất cho khách nước ngoài là từ Bangkok. Ngày nay mỗi ngày có một chuyến bay Bangkok-Thành Đô bằng đường bay South West Airlines của Trung Quốc, thời gian bay khoảng gần ba tiếng đồng hồ. Thành Đô lại là kinh đô nước Thục ngày xưa, là nơi khách có thể tham quan Nga Mi sơn, Lạc sơn, nên đến Thành Đô, khách có thể phối hợp nhiều lộ trình tham quan hết sức thú vị [8]. 

Từ Trung Quốc khách có thể đi Tây Tạng nhưng phải có giấy phép đặc biệt. Vì thế hầu như tất cả mọi người đều phải đi trong các tour do các văn phòng du lịch tổ chức. Thành Đô là nơi tập trung khách đi Lhasa vì từ đó mỗi ngày có một chuyến bay với South West Airlines. Từ Bắc Kinh, Trùng Khánh cũng có chuyến bay đi Lhasa nhưng mỗi tuần chỉ hai ba chuyến không đáng kể

Từ Thành Đô đi Lhasa, tôi bay từ đông sang tây. Ra khỏi Thành Đô không bao lâu một vùng núi non bát ngát đã xuất hiện, đó là lưng dựa hiểm yếu của nước Thục ngày xưa. Vùng núi non thỉnh thoảng được cắt bởi những hẻm sâu vực thẳm mà một trong những hẻm núi hiểm trở đó là thượng nguồn sông Cửu Long. Ôi, đã có một ngày tôi được bay trên đầu nguồn Cửu Long. Từ Thành Đô ta còn có một con đường bộ đi Lhasa. Tuyệt diệu thay nếu đời tôi được đi con đường đó, con đường băng núi bạt ngàn vượt qua vùng Đông Tây Tạng với những trang huyền sử. Con đường đó cũng dẫn đến suối nguồn của Cửu Long Giang mà tôi mơ ước được một ngày nếm vị ngọt của nó. 

Hôm nay tôi sẽ đến Lhasa, "thành phố của chư thiên", nằm trên độ cao 3685m. Trên độ cao này không khí đã khá loãng, tôi chịu nổi không ? Tôi đã lên Zugspitze, đỉnh cao nhất nước Đức chưa đầy 3000m, đã đến Nga Mi sơn cao khoảng 3100m. Thế thì Lhasa phải là chỗ cao nhất xưa nay tôi chưa đến, độ cao của nó vượt hơn đỉnh Hoàng Liên sơn của ta khoảng nửa cây số. Tây Tạng là một một xứ sở kỳ dị, lớn rộng như Tây Âu, độ cao trung bình của nó khoảng 4500m. Dân của họ hết sức thưa thớt, quen sống vùng rẻo cao, ít người xuống được bình nguyên. Nguồn gốc của họ là từ đâu ? 

Thời kỳ xa xưa của Tây Tạng chìm sâu trong bóng tối của lịch sử, như nhà Phật học người Ý Giuseppe Tucci [9] nói, "không có bao nhiêu dữ liệu mà phải đoán mò từ những truyền thuyết tôn giáo". Thế nhưng nhiều nhà địa chất và khảo cổ quả quyết rằng, đất Tây Tạng ngày xưa vốn nằm dưới đáy biển! Cách đây khoảng 40 triệu năm, bán đảo Ấn Độ di chuyển, va chạm vào lục địa châu Á mà đội lên thành Hy-mã lạp sơn và cao nguyên Tây Tạng ngày nay. Vì thế mà ngày nay người ta vẫn còn tìm thấy nhiều dấu vết của động vật sống dưới biển đã hóa thạch và nhiều hồ Tây Tạng là hồ nước mặn. 

Tổ tiên người Tây Tạng, theo lời của chính họ, là một con khỉ ! Con khỉ đó không phải tầm thường, nó là một hiện thân của Quán Thế Âm, tìm đến một hang động lạnh lẽo trên núi cao để thiền định. Thế nhưng gần đó có một nàng ma nữ, gặp khỉ nàng khóc lóc than thở về mối cô đơn hiu quạnh của mình. Động lòng từ bi, khỉ chịu chung sống với ma nữ và sinh sáu người con và đó là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng. Ngày nay người Tây Tạng vẫn tự thấy mình là sự tổng hợp của lòng từ bi dịu hiền của khỉ và sự lì lợm tham lam của ma [10]. 

Tây Tạng có một số lượng dân cư hết sức thưa thớt. Thủ đô Lhasa ngày xưa, trước khi Trung Quốc xâm nhập năm 1959, chỉ có khoảng 30.000 dân. Thành phố lớn thứ hai là Shigatse với khoảng 12.000 dân, thứ ba là Gyantse với khoảng 8000 dân. Toàn bộ dân tộc Tây Tạng chỉ gồm khoảng 5-6 triệu dân. Có lẽ không ai quan tâm đến dân tộc này và chỉ xem họ chỉ là một chủng tộc hoang sơ sống trên rẻo cao nếu Tây Tạng không có một nền văn hóa độc đáo.

Trong nền văn hóa vô song đó đạo Phật đóng một vai trò chủ đạo, nhưng đạo Phật tại đó cũng không còn là Phật giáo Ấn Độ, cũng chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, mặc dù mối liên hệ với hai vùng văn hóa đó hết sức mật thiết. Từ một xứ sở tưởng chừng như hoang sơ đó đã sinh ra và phát triển thành một trường phái Phật giáo thâm sâu, vừa đầy tính lý luận khúc chiết vừa đầy tính mật tông ảo diệu. Đến thời đại hiện nay Phật Giáo Tây Tạng tương đối còn sức sống trong lúc Phật Giáo tại Ấn ĐộTrung Quốc đã suy tàn

Máy bay hạ dần độ cao, bay ngược dòng một dòng sông có chiều dài tổng cộng khoảng 2900km. Bên trái dưới máy bay là dòng sông Yarlung Tsangpo, một dòng sông anh em của Trường Giang, Hoàng Hà, Cửu Long. Nguồn của nó là dưới chân Ngân Sơn, ở miền tây Tây Tạng. Đối với Tây Tạng, Tsangpo cũng quan trọng như Trường Giang với Trung Quốc. Nó phát nguồn từ một mạn-đà-la vĩ đại quanh Ngân Sơn [11] , tên của nó có nghĩa "chảy từ hàm ngựa", chảy từ đông qua tây, bọc quanh một ngọn núi tuyết cao trên 7700m rồi thẳng đường phía nam, lúc này nó mang tên Brahmaputra, xuyên qua Bangladesh chảy ra Ấn Độ dương. 

Tsangpo chính là nơi các nhà vua Tây Tạng xây dựng cơ đồ. Theo truyền thuyết, một ngày nọ trong năm 313 trước công nguyên, có một vương tử Ấn Độ thất thế phải chạy ngược lên Hy-mã lạp sơn. Đó là thời kỳ hùng mạnh của triều đại Maurya tại Ấn Độ, có lẽ vị vương tử này vì thế mà lánh nạn chăng. Vượt tuyết sơn đến Tây Tạng thì ông gặp dân chúng sống trong hang động, họ hỏi ông từ đâu tới. Vì bất đồng ngôn ngữ ông đành chỉ tay lên trời. Dân chúng tưởng ông từ trên trời giáng thế nên công kênh lên vai, tôn ông làm vua. Đó là vị vua đầu tiên, Nyatri Tsenpo. Vị vương tử may mắn này đưa văn minh Ấn Độ vào Tây Tạng, cho xây cất nhà cửa và đặt kinh đô bên dòng Tsanpo, thung lũng Yarlung. 

Khi Nyatri Tsenpo chết thì huyền sử chép "theo một sợi dây mà lên trời"và sáu đời vua sau ông cũng theo cách đó mà giã từ nhân thế. Thế nhưng đến đời vua thứ tám, Drigum Tsenpo thì "dây dứt", nhà vua này được chôn tại Yarlung và từ đó về sau lăng mộ các nhà vua Tây Tạng đều ở Yarlung cả, ngày nay vẫn còn. Đến đời thứ 23, lúc đó là khoảng năm 371 sau công nguyên, thời nhà vua Totori Nyentsen, "trên trời bỗng rơi xuống nóc điện nhà vua"kinh sách bằng tiếng Phạn không ai đọc được. Trong một giấc mộng nhà vua được biết rằng, năm đời sau mới có vị vua đọc và hiểu được kinh sách. Đó chính là vị Tùng-tán Cương-bố nói trong chương trước. 

Tùng-tán Cương-bố lên ngôi, nước Tây Tạng hưng thịnh chưa từng có và cùng với hai nàng công chúa nước ngoài, ông không những "đọc và hiểu" kinh sách tiếng Phạn mà còn xây đền tháp, gửi người đi tu họcẤn Độ, dịch kinh sách. Căn cứ trên tư tưởng Phật Giáo, nhà vua ban bố "Thập thiện" và "Thập lục yếu luật" để dân chúng thi hành. Nhiều học giả cho rằng, kể từ đây nước Tây Tạng mới thoát khỏi tình trạng hoang sơ man dã.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10182)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13567)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13706)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22175)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21835)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17764)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11716)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12315)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25232)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23255)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28558)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22747)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13419)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22436)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26328)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18448)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34477)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27344)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28364)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10611)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18555)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15656)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13173)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14014)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11784)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11622)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11877)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19931)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12383)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13935)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13267)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31928)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13424)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13321)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21840)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11083)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12888)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant