Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

BA: Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

13 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 9415)
BA: Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba


Ba

 

Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

 

Ngày tháng qua đi như nước lũ xuôi nguồn, hấp tấp vội vàng, không hối tiếc. Nhưng trong dòng nước lũ cuồng nộ ấy vẫn còn tồn đọng đôi mảng rong rêu, như tâm tình đơn lẻ.

 

Hơn 30 năm, từ đầu thập niên 70, Thầy đã đến với anh em học Tăng trên đồi Trại Thủy, Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Âu cũng là nhơn duyên đâu đó. Vì rằng trong thời gian này Thầy là Giáo sư Đại Học Vạn Hạnh mà cũng là Tổng Thư ký Tòa soạn Tư Tưởng Vạn Hạnh thì làm sao mà bỏ đi được. Nhưng không, cái gì đến thì đã đến, đến trong thâm tình của một người Thầy cao cả, một bậc ân sư trao truyền cho nếp sống đạo, nếp sống chân thật và tình người chân thật.

 

Tăng sinh lớp học của Viện thời bấy giờ mới vừa trên dưới đôi mươi, riêng người viết thời ấy mới vừa 19 tuổi đầu. Khung cảnh mái học viện thân thương, trên có ban Giám đốc, trong đó có Thầy, luôn chăm lo cho đàn con son trẻ. Dĩ nhiên, trên lý tưởng “tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức” là phương châm, hướng đi hàng đầu của quý Ôn hằng ấp ủ. Người mà có tinh thần cấp tiến cho anh em học tăng được theo chương trình phổ thông là Ôn Già Lam, Giám viện các Phật Học Viện Báo Quốc – Huế; Trung Phần Hải Đức Nha Trang; Tu viện Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn. Ôn đã cho phép anh em học tăng được học hai chương trình song song, chuyên khoa Phật Họcphổ thông ngoài đời, vì Ôn nghĩ rằng kiến thức phổ thông sẽ giúp quý Thầy sau này tiếp xúc với xã hội được dễ dàng hoằng pháp lợi sanh. Chính vì tinh thần cảm thông cho giới trẻ mà Ôn đã cho anh em học tăng tự do chọn ngành học của mình. Thấy vậy Ôn Đổng Minh, nay đã viên tịch, khuyên anh em học tăng nên chọn những ngành khoa học hơn là chọn ban văn chương, triết học. Ôn nói:

 

“Đi ban văn chương rồi về làm văn thơ gởi tâm tư theo mây gió có ích lợi gì đâu, hãy chọn các ban khoa học như toán, hóa học... về nghiên cứu, biến chế xì dầu Lá Bồ Đề, Hương Giải Thoát còn có ích hơn.” 

 

Ôn lúc nào cũng thiết thực, đem khả năng phụng sự cho Đạo, cho Đời. Ôn muốn tận dụng kiến thức, khả năng của giới trẻ để phụng sự cho tất cả, mà không muốn uổng công phí sức. Ôn thường nói:

 

“Của đàn na tín thí khó tiêu.”

 

Vì thế, lúc nào Ôn cũng đốc thúc, làm động cơ cổ súy anh em học Tăngđiều kiện tinh tiến. Chính nhờ công đức đó mà các anh em có người trở thành Bác Sĩ, Hiệu Trưởng, Giáo Sư các trường Bồ Đề, hay giảng dạy lại trong các Phật Học Viện... Đó là những chân tình của quý Ôn đã nuôi dưỡng học tăng qua các Phật Học Viện của một thời hưng thịnh. Nay quý Ôn đã không còn nữa. Người viết nhớ lại, mỗi khi có Phật sự của Viện cần bàn luận thì trên cốc của Ôn Giám viện có đầy đủ quý Ngài: Ôn Già Lam, Giám Viện Phật Học Viện; Ôn Từ Quang, thường ở trên cốc trong 3 tháng an cư; Ôn Từ Đàm – Viện trưởng Viện Cao Đẳng; Ôn Đổng Minh – Phó Viện Trưởng Viện Cao Đẳng; Ôn Trừng San – Giám sự Phật Học Viện; và Thầy Tuệ Sỹ... nhưng giờ đã không còn nữa, chỉ còn Ôn Minh ChâuVạn HạnhThượng tọa Tuệ Sỹ ở Già Lam. Các Ngài đã xả bỏ báo thân viên tịch, vì thế Viện Cao Đẳng nay chỉ có xác mà không hồn, ngày tháng âm thầm, nép mình dưới rặng Bồ Đề, hàng phượng vĩ. Một nỗi đau chẳng nói nên lời. Đến nay, mỗi lần Thầy nghĩ về Phật Học Viện Hải Đức, trên đồi Trại Thủy khi xưa lại thấy lòng mình chấn động, bàng hoàng đến rơi lệ. Bao lớp bụi phế hưng của vô thường đã chôn chặt tất cả mọi hình ảnh, công sức của các thế hệ Cha Ông, Thầy Tổ. Còn đâu nữa bóng dáng oai nghiêm của Ôn Già Lam về thăm viện. Không còn hình ảnh an nhiên tự tại trước hành lang viện của Ôn Từ Đàm và cũng không còn thân giáo ai cũng ngưỡng vọng nhưng khiếp sợ của Ôn Đổng Minh mỗi lần chống dù qua thăm chúng. Tất cả đã lùi về dĩ vãng, chôn chặt ở nơi đó những kỷ niệm tình nghĩa Thầy trò, mà trăm kiếp ngàn đời cũng khó phôi pha. Sự hiện thân của quý Ôn vào cuộc đời để độ sinh, hành đạo, rồi công viên quả mãn, thệ nguyện đã thành thì quý Ngài thuận thế vô thường, sanh diệt chỉ là huyễn duyên không thật. Quý Ôn có đến có đi, nhẹ như mây trời, bềnh bồng đây đó, không hề vướng bận chút trần duyên, nhưng chúng con, hàng Tăng sinh hậu học còn nặng tình ân sư, nghĩa Thầy trò khó mà nguôi ngoai khi nghĩ về những ngày tháng cùng chung sống dưới mái Học Viện. Từng mùa an cư kiết hạ, có đầy đủ quý Ôn. Lễ Kiết Giới An Cư, Thầy quản chúng bưng cây đèn sáp thỉnh Ôn Từ Quang làm lễ khai chung bảng nơi trai đường. Trong khi đó tất cả đại chúng y hậu chỉnh tề đứng nghiêm trang trong chánh điện. Ôn Đổng Minh hầu Ôn Từ Quang vào chánh điện để niêm hương bạch Phật làm lễ Yết Ma Kiết giới trường. Ôn Đổng Minh đại diện chúng Tăng tuyên bố và chỉ rõ ranh giới của giới trường từ hướng đông đến hướng tây, từ hướng nam đến hướng bắc. Phía trước giáp cửa bàn pha, phía sau giáp vách hậu Tổ... Tất cả hình ảnh ấy còn đậm nét trong tâm tư những anh em học Tăng thủa ấy.

 

Suốt ba tháng an cư đều đặn, Ôn Đổng Minh từ chùa Tỉnh Hội qua Viện trên con đường được mệnh danh là Đại Lộ Bình Minh, nằm ven triền đồi Trại Thủy, không sót một bữa, đủ chín chục bát cơm in... và cứ thế suốt bao mùa mưa nắng, quý Ôn đã tận tụy nuôi lớn đàn con, để bây giờ nghĩ về thời ấy mà thương quý Ôn vô vàn.

 

Cũng trong những mùa an cư này, Ôn Từ Đàm dạy Bát Thức Quy Củ Tụng hoặc Thủ Lăng Nghiêm, Ôn Đổng Minh dạy luật hoặc Duy Thức Phương Tiện Đàm. Đâu đó rành rọt nghiêm minh như tấm lòng nồng ấm được trao truyền cho nhiều thế hệ.

 

Người viết nhớ ngày tổ chức Đại Giới Đàn Phước Huệ, năm 1973, Ôn Già LamĐàn Chủ, Ôn Từ Quang làm Đàn Đầu Hòa ThượngGiới Đàn oai nghiêm trang trọng. Đêm hô canh, chấp lệnh, thiền hành. Trên ba trăm giới tử xuất gia, ban kiến đàn, quản giới tử đều thiền hành từ chánh điện Phật Học Viện đi lên phía trước dãy Tăng phòng đến tháp chuông, lên Kim Thân Phật Tổ, xuống tam cấp Kim Thân, ra trước chánh điện chùa Tỉnh Hội, vòng qua đại lộ Bình Minh rồi về lại Viện. Một đoàn người vừa chung, vừa bảng, vừa đèn đuốc, tù và, hô canh niệm Phật vang rền cả núi rừng Trại Thủy. Thật là một thời huy hoàng, xiển dương chánh pháp. Tấm biển “Tuyển Phật Trường”, sơn son thếp vàng, Đạo Tràng Chọn Người Làm Phật, được tôn trí ở nhà Thiền, nơi đảnh lễ cung thỉnh Hội Đồng Thập Sư. Bên cạnh nhà Thiền là giảng đường để giới tử trùng tuyên giới luật, treo câu:

 

“Kích Pháp Cổ, Xuy Pháp Loa Phổ Cáo Mộc Xoa Ứng Thế”

(Đánh trống Pháp, thổi loa Pháp Báo Hiệu Giới Luật Ứng Hiện Nơi Đời)

 

Trong ngôi vị Đàn Đầu Hòa Thượng, Ôn Từ Quang được cung thỉnh ngồi trên kiệu, có giới tử khiêng từ dưới cổng viện lên chánh điện trong buổi sáng hôm đó. Sau buổi lễ, hầu Ôn về cốc, đến giờ cơm trưa, Ôn nói:

“Hồi sáng quý Thầy khiêng tui trên kiệu tui sợ quá, đường dốc, lên tam cấp, cái kiệu cứ lắc lư, tui bắt thót ruột.”

 

Ôn nói rồi cười, làm mọi người ai cũng cười theo. Ôn Già Lam cũng đùa:

 

“Có răng mô mà Ôn sợ ?”

 

Ấy là nếp sống đạo vị của quý Ôn, mà người viết một thời có duyên gần gũi, hầu qúy Ngài, để thấy được tánh đức từ bi, trí tuệ sáng ngời tỏa rạng nơi quý Ôn, là những bậc thạch trụ Thiền gia, Long tượng Kỳ túc. Nay thì rừng thiền vắng bóng quý Ôn, cửa Viện âm ba bặt dứt. Dòng từ thanh thản uy nghiêm, nhẹ bước tiêu diêu miền Tịnh độ, để lại sau lưng gót hài còn sắc nét đâu đó nơi bực thềm, nơi sân, nơi cổng Viện... và đâu đó còn hiển lộ bóng dáng tôn nghiêm của quý Ngài. Hương thơm giới đức còn xông ướp mái chùa, sắc tướng huyễn thân ảnh hiện từng khóm cây, nhánh lá. Đã gần 40 năm xa Viện nhưng cứ ngỡ như ngày nào, nay chỉ có mình Thầy còn đó. Nhưng còn trong sự nghiệt ngã, đã một lần bị kêu án tử hình giảm xuống còn 14 năm tù ở, và còn bao năm bị quản chế giam lỏngThời cuộc đẩy đưa khiến Thầy phải lao đao, nhưng ý chí vững vàng, Thầy vẫn hết mực giáo dục chúng con và các thế hệ kế tiếp. Thầy đã nhiều lần khẳng định với anh em Tăng sinh:

 

“- Người xuất gia, khi cất bước ra đi là hướng đến phương trời cao rộng, tâm tínhhình hài không theo thế tục, không buông mình chiều theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực. Một chút phù danh, một chút lợi thế, một chút an nhàn tự tại, đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay người đời còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn tiết nghĩa. Chớ khoa trương bảo vệ chánh phápthực tế chỉ ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho ma vương, làm nơi hội tụ của cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh Vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán tước. Xưa kia, khi Vua Chúa bắt Sư Tăng cúi đầu nhận tước lộc của Triều đình để làm tôi tớ cho Vương hầu, Chư Tổ đã sẵn sàng đặt đầu mình trước gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuất gia, bước theo chân vô úy, vô cầu của các Thánh đệ tử, được gói trọn trong thanh quy: “Sa môn bất kỉnh vương giả.”

 

Lời nói khí khái của bậc xuất trần vi thượng sỹ. Thầy đã không khiếp sợ trước cường quyền: “Không ai có quyền xét xử tôi, thì không ai có quyền ân xá tôi.” dẫu đứng trước vành móng ngựa nhận án tử hình. Thầy thanh thản, bình tâm giữ tròn tiết tháo của người đệ tử Phật, của kẻ sỹ ý thức được vận mạng quốc gia dân tộc, và đảm đương sứ mệnh hoằng truyền giáo pháp của Đức Như Lai.

 

Thầy luôn tâm niệm: đào tạo Tăng tài, giáo dục tuổi trẻ, nguồn tài nguyên vô tận, để hộ đạo giúp đời, đem niềm an vui tịnh lạc cho quê hương, dân tộc. Thầy luôn khởi động làm chấn hưng văn hóa nước nhà và đóng góp những công trình nghiên cứu, dịch thuật, sưu khảo giáo pháp cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam ngày thêm phong phú.

 

Bằng tâm niệm đó, Thầy luôn đi bên cạnh của nhiều thế hệ Tăng sinh. Thế hệ học Tăng của 30 năm trước tại Viện Cao Đẳng Hải Đức, Nha Trang. Thế hệ học Tăng của thập niên 80 của Tu viện Quảng Hương Già LamThế hệ học Tăng của Thừa Thiên – Huế hiện có bây giờ. Thầy đã quán chiếu được môi trường xã hội mang tính thời đại, cũng như truyền thống Việt Nam nhiều nghìn năm. Quán chiếu tự thân theo lẽ thăng trầm sinh diệt của cuộc đời. Thầy nói:

“... Thế hệ của Thầy thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn 30 tuổi đã phải khép cổng chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám cũng linh đinh theo vận nước thăng trầm. Sở học, sở tri cũng cùn mòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy chưa có điều gì thất thố làm điếm nhục tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ mong cùng chia sẻ với thế hệ kế thừaMột thế hệ đang trưởng thành để khơi tỏ ngọn đèn Chánh pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa.”

 

Tất cả tâm tư Thầy được diễn đạt đến anh em học Tăng bằng máu và nước mắt. Bằng trái tim nồng nhiệt, lo lắng cho thế hệ tương lai. Thầy đặt niềm tin nơi thế hệ tiếp nối giữ tròn tiết tháo của kẻ sỹ mà không bị lung lạc bởi thế tục lợi danh. Thế hệ đó đi trên đoạn đường Chánh pháp, nêu cao chí nguyện xuất trần để khỏi cô phụ công ơn Thầy Tổ. Mong cho các thế hệ kế thừa được vuông tròn theo ý nguyện của sơ tâm, giữ vững niềm tin trong sáng để tự tồn trên lý tưởng giác ngộ. Thầy khuyên:

 

“Cầu mong các con có đủ dũng mãnh để đi bằng đôi chân của mình, nhìn bằng đôi mắt của mình; tự xác định hướng đi cho chính mình. Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời mình.”

 (Thư gởi Tăng sinh Thừa Thiên – Huế. Ngày 28-10-2003)

 

Còn gì để nói về tâm tình của một bậc Thầy cao cả! Bậc Ân sư của nhiều thế hệ Tăng sinh!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26185)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21578)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23376)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14716)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12935)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19797)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13803)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22770)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11979)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12417)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24029)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13715)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21068)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25610)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19240)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23222)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21397)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18318)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13979)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15449)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17868)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21945)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17527)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30913)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28049)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14881)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17154)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22616)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28207)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14001)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17035)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22294)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14152)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21478)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20807)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28513)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15056)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26585)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19275)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31576)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30597)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 20994)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26177)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23553)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25600)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25360)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19706)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18450)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17778)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19044)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant