Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Tám trai giới

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5877)
08. Tám trai giới


THỨC BIẾN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

TÁM TRAI GIỚI

(Bát quan trai giới)

1. Chủ ý Phật chế "Tám Trai Giới"

Lòng từ bi của Phật dạy khắp Phật tử cả không gian vô biên, thời gian vô tận. Ngài muốn hết thảy chúng sinh đều được như Ngài, không còn vô minhgiác ngộ, giải thoát hỏi nhà lửa Tam giới, để bước sang giới thanh tịnh an vui. Chỉ vì căn cơ trí thức tánh dụng của chúng sinh không đồng mà Phật phải tùy cơ để giáo hóa. Lòng từ bi của Phật tuy khắp tuy đồng, như ánh trăng chiếu diệu cả muôn phương, nhưng pháp môn dẫn đạo lại chia ra muôn ngàn sai khác. Biết rằng khác mà cố gắng thực hành thì cũng đi đến chỗ đồng là đồng được giải thoát.

Phật tử chúng ta khi đối trước Tam Bảo phát nguyện quy y, là trong tâm chí mình đã nảy ra một niệm hương thượng, vươn mình ra ngoài bể khổ, phát tâm hướng đến con đường giải thoát, rời bỏ trần lao, đến cảnh thanh tịnh, lìa địa vị phàm phu bước đến địa vị Chánh giác, xa đời sống ích kỹ hẹp hòi tà vạy, tập một đời sống vị tha rộng rãi chánh đáng. Do vạy, trong đời sống mới, theo con đường chư Phật chỉ dạy, phải tuân hành theo những quy luật của Phật thiết chế. Những quy luật ấy tức gọi là Giới mà hàng tại gia cũng như hàng xuất gia, ai nấy đều phải thọ trì, không để trái phạm.

Sau thời kỳ Chánh pháptượng pháp, đến thời kỳ mạt pháp cách đạo càng xa, lòng người nguời thấp kém, một phần là vì giới luật của hàng Phật tử không được truyền thọ phân minh, một phần nữa vì đại đa số nghe nói giới luật Phật chế thì sợ hãi, xem đó như một cái gì khắc khổ đối với người ta, là cho người ta mất hết cả tự do, đi đến chỗ hèn yếu. Biết đâu rằng lời thẳng thường khó nghe, thuốc hay thường khó uống, nên ta không thể vì lẽ trái với thị dục phiền não mà không giữ, hoặc sợ hãi, khinh lờn. Huống chi Phật là vị như pháp ngữ, soi thấy căn bịnh chúng sinhphân chia giới thành nhiều tạng, nào là Ưu-bà-tắc giới,Ưu-bà-di giới, Sa-di giới, Sa-di-ni giới, Tỷ-kheo giới, Tỷ-kheo-ni giới, Bồ-tát giới, mỗi người đều tùy trường hợp của mình mà lãnh thọ. Tựu trung, Phật còn muốn hàng tại gia có thể xuất gia trong từng thời gian ngắn để gieo nhân xuất thế về sau, nên chế định cho kẻ tại gia phép "Bát quan trai giới". Tuy thọ trong từng thời gian ngắn mà công đức vô lượng vô biên.

2. Bát quan trai giới

Bát quan nghĩa là tám cửa. Ý nói rằng tạo tác tám điều: sát, đạo, dâm, vọng... là mở cửa rộng lớn, chúng sinh từ đó mà đi vào đường tội lỗi, bị sống chết trong nẻo luân hồi ác đạo; nếu muốn giải thoát thì phải đóng tám cửa ấy lại, nghĩa là phải diệt trừ tám điều: sát, đạo, dâm, vọng v.v. ấy đi. Diệt được tám ác pháp này là đóng kín tám cửa, không để đi đến cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đồng thời cũng tức là mở tám nẻo đường đi lên địa vị Thánh giả.

Trai nghĩa là đúng thời. Trong ba thứ ăn, mặc, ở, người thế gian thường chú trọng bao nhiêu thì trái lại kẻ tu hành càng biết kiềm chế bấy nhiêu, miễn sao vừa đủ để giúp đỡ đường tu, phải lành xa sự đắm say luyến tiếc, nhất là sự ăn. Trong luật thường chia hai lối: ăn phải thời và ăn trái thời. Từ sớm đến trưa mà ăn là phải thời, từ trưa về tối mà ăn là trái thời. Kẻ tu hành cần y lời Phật chế, không ăn trái thời nên gọi là trai.

Giới là đều răn, điều cấm để hướng thân tâm theo con đường chánh, con đường giải thoátlánh xa tội ác.

Tám trai giới là:

1. Xa lìa sự sát sinh
2. Xa lìa sự trộm cắp
3. Xa lìa sự dâm dục
4. Xa lìa sự nói dối
5. Xa lìa sự uống rượu.
6. Xa lìa sự trang sức, hát múa và xem nghe hát múa
7. Xa lìa sự nằm ngồi những chỗ cao tốt.
8. Xa lìa sự ăn trái thời.

Tám điều này là cả trai và giới gồm lại. Bảy điều trước là giới, điều thức tám là trai. Ấy là "Tám trai giới" Phật chế cho kẻ tại gia được tập xuất gia trong những thời gian ngắn vậy.

3. Phép thọ "Bát quan trai giới"

Trong kinh Thiện Sinh, kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật dạy: "Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong những ngày mồng 8, ngày 14, ngày 15 nên đến trước các vị xuất gia Đại đức cầu thọ tám trai giới, chớ để thất thời". Lại có chỗ đức Phật thêm rằng "truyền thọ phép Bát quan trai sáu ngày trong mỗi tháng là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30" (tức là lục trai mỗi tháng). Xuống đến ngày nay, luật pháp không minh, hành trì kém sút, nên đã từ chỗ tu trì nhất định đi đến chỗ phát nguyện tùy tâm. Dù sao, có còn hơn không. Bởi còn có phát nguyện, còn có tu trì, thì thế nào cũng đến đạo quả giải thoát.

Nếu luận về ngày thì có hai cách:

a) Phép Bát quan trai thọ trì chánh trong một ngày đêm (vào những ngày mồng 8, 14, 23 và 5, 18)

b) Phép Bát quan trai thọ trì phụ thêm ngày rước đưa (vào những ngày mồng 1, 4, 5, 6, 7, 9, 13, 16, 17, 19, 22, 24, 28).

Ngày rước ngày đưa nghĩa là hai ngày đêm trước và sau một ngày đêm chánh thọ. Bởi người tại gia thường bị bao vây trong thế duyên ràng buộc, không thể một phút một giờ có thể bỏ hẳn được, nếu không sắp đặt dứt bỏ trước để dự bị thanh tịnh trong một ngày đêm chánh thọ thì không có lợi ích lớn. Vậy nên muốn cầu thọ "Bát quan trai giới" thì trước một ngày đêm của ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm thọ trì dự bị chánh giới ấy và sau một ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm nữa để hoàn thành giới ấy.

Trong hai cách thọ giới "Bát quan trai" trên, cách thọ trì chánh phải tìm đến thọ nơi các vị xuất gia, còn cách thọ trì phụ thì không, chỉ tự phát nguyện cũng đủ. Trong cách thọ trì chánh, có thể ở nhà mà vẫn hành trì được, nhưng phải đến thọ với người xuất gia trước đã. Nếu gặp hoàn cảnh minh tướng (bình minh vừa tỏ) xuất hiện mà liệu chưa đi đến người xuất gia được thì phải đối trước tượng Phật phát nguyện thọ giới, rồi vẫn phải tìm đến người xuất gia mà thọ mới đắc giới. Khi đến thọ với người xuất gia dù muộn cũng cần bằng thọ khi minh tướng xuất hiện vì mình đã phát nguyện.

Nói tóm, thọ trì giới "Bát quan trai" phải 20 ngày mỗi tháng kể cả chánh thọ và phụ thọ. Nhưng ngày nay hoàn cảnh người tại gia khó bề thực hành được như thế. Vậy nên phương tiện có thể hành pháp như thế này:

a) Phải thọ mỗi tháng 3 ngày chánh như Phật chế là mồng 8, 14 và 15. Hoặc một trong những ngày ấy.

b) Phải tìm đến các vị xuất gia (Sa-di, Tỷ kheo) truyền cầu thọ giới cho. Ngoại trừ trường hợp không có các vị xuất gia hoặc có mà không cách gì tìm đến được, thì tự phát nguyện trước tượng Phậtthọ lãnh giới, nghĩa là như cách "thọ trì phụ" mà thôi.

c) Trước khi thọ, phải một ngày đêm dự bị sắp đặt tất cả chướng duyên để đến một ngày đêm "thọ trì chánh" được thanh tịnh.

4. Nghi thức thọ "Bát quan trai giới"

Người thọ giới "Bát quan trai" y phục phải chỉnh tề, nghe gọi là đứng vào giữa bàn thờ Phật, theo tiếng chuông đảnh lễ ba lạy. Xong quỳ xuống, chấp tay nghe Thầy truyền giới dạy:

- Bể khổ vô biên, nếu không nương thuyền Bát nhã không thể lên bờ Giác, luân hồi nhiều nẻo, chẳng thọ trì tịnh giới thì không thể được giải thoát. Chư Phật do tịnh gới mà thành Chánh giác. Đại thừa, Tiểu thừa, đồng thọ tịnh giới, thế gian hay xuất thế đều giữ tịnh giới. Nhưng tại gia Phật tửtrần lụy bao vây, không thể quyết chí chung thân thọ trì. Bởi thế, Như lai từ bi, phương tiện dạy mỗi một ngày đêm, thọ trì tám thứ trai giới này. Tám trai giới này công đức siếu phàm nhập thánh vượt qua ba cõi, thẳng đến Giác ngộ.

Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật)

Các người, từ vô thỉ đến nay, tạo các ác nghiệp vô lượng vô biên, nay phải chí thành, tha thiết sám hối, để cho thân tâm thanh tịnh tinh khiết, rồi mới thọ trì tám thứ trai giới. Vậy các người hãy đọc theo lời tôi: (Người thọ giới đứng dậy, chấp tay đọc theo).

- Đệ tử... (nói tên họ, hoặc pháp danh) từ vô thỉ đến ngày nay, gây ra tội ác, như ba nghiệp, mười ác, tà kiến v.v. nay hướng lên Tam Bảo trong khắp mười phương, cần cầu sám hối, nguyện đều trừ diệt.

(Đọc ba phen như thế. Xong, Thầy truyền giới xướng:)

Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trứ Tam Bảo (xướng ba lần, mỗi lần người thọ giới lạy một lạy. Xong, quỳ xuống, chấp tay đọc ba phen theo Thầy:)

Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham sân si,
Tử thân miệng ý phát sinh ra,
Đệ tử thảy đều xin sám hối.

(Ngưòi thọ giới đứng dậy, đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, chấp tay, nghe Thầy dạy).

- Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật). Đã chí thành sám hối ba nghiệp thanh tịnh rồi, vậy từ giờ này cho đến sáng mai hãy chí tâm tu tập tám thứ trai giới của Phật chế. Tám thứ trai giới là những gì?

Một là không được sát sinh
Hai là không được trộm cướp
Ba là không được dâm dục
Bốn là không được vọng ngữ
Năm là không uống rượu
Sáu là không trang sức hương hoa cùng phục sức đẹp, không được múa hát hay cố ý xem nghe múa hát.
Bảy là không được nằm ngồi giườong ghế cao rộng
Tám là không được ăn trái thời.

Tám thứ này, bảy giới trước gọi là giới, nghĩa là đóng bít cửa ngõ ác đạo; giới thứ tám gọi là trai, nghĩa là giống như Như lai, bứoc theo đường lối trung đạo, ăn đúng vào lúc mặt trời vừa đứng bóng. Gồm cả tám thứ giới trai, gọi là tám quan trai giới. Các người nên phát tâm vô thượng, thọ giới vô thượng ấy. Vậy các người hãy nói theo lời tôi chỉ dẫn.

(Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới)

- Đệ tử (Người thọ giới xưng tên và pháp danh) qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến GiácThế Tôn của con (Nói ba lần như thế rồi nghe Thầy dạy).

- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đã thọ ba pháp qui y, các người hãy nói theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới):

- Đệ tử! (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) qui y Phật cảnh, qui y Pháp cảnh, qui y Tăng cảnh. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến GiácThế Tôn của con.

(Nói ba lần như thế, rồi đứng dậy đảnh lễ ba dạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy)

- Đệ tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đã thọ cho các người ba pháp qui y, ba pháp cứu cánh, thế là giới thể đã viên mãn rồi. Nay tôi lại nói rõ giới tướng để các người lạnh thọ giữ gìn, không được hủy phạm. Vậy các người hãy nói theo lời tôi (Người thọ giới nói theo lời thầy truyền giới).

Như Phật Thế Tôn suốt đời không sát sinh, đệ tử... (Người thọ giới tự xưng tên họ, hoặc pháp danh) thề một ngày đêm xa lìa sự sát sinh

Như Phật Thế Tôn suốt đời không trộm cướp, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự trộm cướp.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không dâm dục, đệ tử.. thề một ngày đêm xa lìa sự dâm dục.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không vọng ngữ, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự vọng ngữ.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không uống rượu, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự uống rượu.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không trang sức, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự trang sức

Như Phật Thế Tôn suốt đời không múa hát và xem nghe múa hát, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự múa hát và xem nghe múa hát.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không ăn trái thời, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự ăn trái thời

(Người thọ giới đứng dậy, đãnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy phát nguyện)

Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người đã thọ tám trai giới phải phát thệ nguyện. Hết thảy việc thế gian, cho đến việc xuất thế, nếu không phát nguyện, không việc gì thành tựu. Vậy các người hãy chí thành phát nguyện theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo).

- Đệ tử... (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) chí tâm phát nguyện, nguyện do công đức thọ giới "Bát quan trai", giải thoát ba đường, xa lìa tám nạn, nguyện đem công đức ấy, hồi hướng cho hết thảy hữu tình, hoặc thấy, hoặc nghe đồng sinh Tịnh độ, đồng thấy Như lai, đồng chứng pháp nhẫn đồng chuyển chúng sinh, đồng thành Phật đạo.

(Phát nguyện xong, người thọ giới đứng dậy đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống nghe Thầy dạy)

- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người, nếu đã thọ tám trai giới rồi, phải giữ từng như giữ tròng mắt, trong một ngày đêm đừng có hủy phạm. Trong tám trai giới ấy, nếu phạm một giới thì thành người bất tịnh. Tám trai giới nàylà giới rất vi diệu, làm cho nguời tại gia được xuất gia, vậy các ngươi trong suốt một ngày đêm này, phải nhiếp tâm lại, chánh tâm giữ gìn như giữ bờ đê, không cho nước chảy, các người nhờ phước thiện đời trước, ngày nay được sinh làm người, được gặp Phật pháp, đựoc thọ tịnh giới, làm căn bản cho Giải thoát, vậy phải trân trọng, đừng nên tự khinh (Người giới đáp lại: Con xin y giáp thực hành). (Xong, đứng dậy đảnh lễ theo lời xướng sau đây, mỗi hiệu một lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trú Tam Bảo

Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Thế tôn

Nhất tâm đảnh lễ Truyền Giới Bổn Sư

Nghi thức truyền "Bát quan trai giới" đến đây là xong. Nếu còn thì giờ thì sau khi đảnh lễ, nên niệm Phật, còn không có thì giờ thì thôi.

5. Ích lợi giới "Bát quan trai"

Điểm này muốn rõ ràngvắn tắt, tôi trích dịch lời Phật dạy về "Bát quan trai giới" trong kinh Ưu-bà-tắc Giới để mọi người cùng rõ:

"Thiện nam tử! Nếu ai tìm người xuất gia lãnh thọ ba qui y, tám trai giới (bằng cách nói ba lần) trong một ngày đêm thì người ấy được hoàn thành trai giới Ưu-bà-tắc trong một ngày đêm".

Qua hôm sau, khi minh tướng (mặt trời mọc vào lúc sáng sớm) xuất hiện thì giới ấy hết. Giới ấy không được tự thọ trước tượng Phật, cần phải thọ với người xuất gia. Thọ rồi căn bản thanh tịnh, cứu cánh thanh tịnh, trang nhiệm thanh tịnh, giác quán thanh tịnh, thế gọi là pháp "Ba quy y, tám trai giới thanh tịnh". Thiện nam tử! Thanh tịnh thọ trì Ba qui y, Tám trai giới như vậy thì trừ diệt đước năm nghịch tội, tất cả tội lỗi khác cũng đểu tiêu diệt. Tám trai giới không được hai người cùng nói thọ một lần... Năng lực của tám trai giới này có thể làm cho các đời sau sinh ra không bao giờ làm ác... Những ai có trách nhiệm... muốn tổ chức thọ "Ba qui y và tám trai giới" này, trước hết phải yêu cầukhuyến thỉnh địa hạt thuộc phạm vi của mình... trong ngày đêm sắp thọ giới "Bát quan trai" nên đình chỉ tất cả các điều ác, các hình phạt. Nếu thanh tịnh thọ trì tám trai giới như vậy, thì người ấy sẽ được rất nhiều đều an lạc, cho đến được phước lạc tối thượng".

"Đức Di-lặc ra đời, người ta sẽ thọ trì tám trai giới mỗi lần một trăm năm. Không như bây giờ một ngày đêm, vì chúng sinh bây giờ đủ cả năm thức ô trọc. Thế nên đức Phật nói với bà Lộc-mẫu rằng: "Thiện nữ! Cho đến loài vô giác như cây sa-la mà nếu thọ trì tám trai giới, cũng sẽ được vô lượng an lạc trong loài Người loài Trời, cho đến sẽ được sự an lạc vô thượng. Thiện nam tử! Tám giới này là chuỗi anh lạc trang sức trí-giác-vô-thượng vậy. Giới như vậy dễ thực hành mà kết quả vô lượng. Nếu dễ thực hành mà không thực hành thì ấy là kẻ phóng dật".

6. Những điều cần ghi nhớ

* Sự sinh sống: Trong các nghề sinh sống đặc biệt là nghề buôn bán, Phật tử tại gia muốn sự sinh sống chân chánh thì trong nghề buôn bán không nên:

1. Buôn bán khí giới.
2. Buôn bán người.
3. Buôn bán thú.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn ván thuốc độc.

Không những tự mình không nên mà không được khuyên hay tán đồng người buôn bán năm nghề ấy.

* Những điều hại: Đây là năm điều phá hoại giới đức và sự sống chân chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải tránh:

1. Không tin tưởng công đức Tam Bảo.
2. Phá giới đã thọ.
3. Không quyết định.
4. Chấp kẻ có tà thuật ban cho ta sự tội phước.
5. Tìm phước nơi người ngoại đạo.

Ai phạm một trong năm điều ấy thì không còn là người Phật tử chân chánh nữa, gọi là người đáng cho các bậc thiện trí thức bỏ rơi, xa lìa.

* Những điều lợi: Trái lại, năm điều sau đây lợi ích cho giới đức và sự sống chơn chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải giữ:

1. Tin chắc nơi ân đức Tam Bảo.
2. Giữ giới đã thọ.
3. Tâm quyết định.
4. Tin lý nhân quả, không tin tà thuật ngoại đạo.
5. Không xu hướng theo ngoại đạo, chỉ tìm phước nơi người tu theo Phật pháp.

Những người Phật tử tại gia giữ đúng năm điều này, thì tức là người Phật tử cao thượng, ví như hoa sen không vấy bùn nhơ mà hương sắc kỳ diệu.

* Những điều tiến bộ đạo đức: Đây là mười đều tăng thêm, phát triển đức nghiệp cho người Phật tử tại gia. Người tại gia phải chí tâm thọ trì:

1. Qui y Tăng rồi thì, Tăng vui mình vui, Tăng khổ mình khổ.
2. Thân và khẩu thanh tịnh.
3. Lấy đạo làm gốc, nghĩa là mỗi khi làm một công việc gì phải noi theo đạo lý làm điều tối trọng hơn hết, không bao giờ quên.
4. Ưa thích bố thí tùy sức mình, nghĩa là có ít cho ít, có nhiều cho nhiều, không để lòng bỏn xẻn làm chủ.
5. Siêng năng trong việc học hỏi cho thấu rõ lý đạo của Phật đã truyền dạy.
6. Có chánh kiến, nghĩa là có trí tuệ thấy biết điều phải lẽ thật.
7. Tránh xa những người không có ý quyết định. Không tin kẻ tà thuật cho mình hoạ phúc. Chỉ tin lý nhân quả. Làm lành được vui, làm ác phải khổ.
8. Không quên Tam Bảo: Dù gặp hoạn nạn đến nỗi nguy hại đến tánh mạng mình cũng không bỏ đạo, không bỏ lòng tin Tam Bảo mà nghe theo kẻ khác, tôn kín họ làm thầy, hoặc bảo họ là hơn Tam Bảo.
9. Muôn sự đồng ý cùng nhau.
10. Tu hành chín chắn theo Phật pháp.

Những người tại gia Phật tử hết lòng sống theo mười đều ấy thì làm cho sự tu hành của mình mau được kết quả, cũng là hạt giống Niết-bàn được gieo trồng vậy. Tất cả những điều cần thiết trên đây là trích ở trong Luật, nhất là Luật Nam tông (Pali). Những đều này cốt dạy cho người thọ trì Tam quiNgũ giới. Nói cách khác, người qui y rồi là phải giữ đúng những điều cần ấy. Nay trích ra đây để các vị thọ giới Bát quan trai biết mà giữ, bởi lẽ thọ năm giới còn phải giữ huống chi thọ trì Tám giới dự tập xuất gia trong thời gian ngắn!

Đạo có khó mới gọi là đạo. Đạo có khó làm mới có hiệu quả lớn. Dù ở từng bực nào trong đạo, Phật tử chúng ta cũng phải cố gắng làm đúng theo đạo mới mong giải thoát, như mục đích chúng ta đi đến với đạo.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34302)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16851)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22958)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13045)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21930)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22162)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14859)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23557)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24077)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23610)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17133)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19339)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27027)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14406)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13830)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22670)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14719)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17348)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12656)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13854)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10399)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14665)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17194)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12537)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12688)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10349)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28701)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10685)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11123)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16863)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15762)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13331)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12545)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11350)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13019)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19302)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12240)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28570)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10037)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21500)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12774)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17804)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26198)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11686)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10839)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22723)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12028)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10597)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11375)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11512)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant