Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp

25 Tháng Hai 201100:00(Xem: 6271)
10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp

THANH TỊNH TÂM
 Lê Sỹ Minh Tùng

10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp

Tháng 12 năm 2004, một cơn động đất dữ dội kéo theo những ngọn sóng thần khủng khiếp đã tàn phá không biết bao nhà cửa và giết chết trên trăm ngàn người dọc theo bờ biển các nước Thái Lan, Nam Dương và Tích Lan. Ngoài số người chết nằm la liệt, các bệnh viện không còn một chỗ trống vì số người bị thương mỗi ngày mỗi tăng. Chưa hết, mùa thu năm 2005, cơn bão Katrina đã tàn phá nhiều thành phố dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ của Hoa Kỳ và chính cơn bão nầy cũng giết chết và làm bị thương rất nhiều người mà cho đến ngày nay chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa thể tái thiết trở lại. Trước những tai họa chung đó, nhà Phật gọi chúng là cộng nghiệp.
 

Như thường lệ, cứ mỗi sáng ông B đi tản bộ chung quanh khu phố nhà ông. Nhưng sáng nay vì sương mù dày đặc nên một chiếc xe không thấy ông băng qua đường nên đụng làm ông chết tại chỗ. Trường hợp cái chết của ông B là biệt nghiệp. Đối với biệt nghiệp thì vấn đề trở nên đơn giản vì nghiệp ai đã gieo thì chỉ người ấy chịu, nhưng trước một tai họa chung thì sự việc phức tạp hơn nhiều. Thế thì Luật Nghiệp Quả giải thích cách nào? Không lẽ tất cả những người bất hạnh kia trong quá khứ đã xúm nhau làm chung một điều ác?
 

Thật ra thì không nhất thiết là một nghiệp ác đời nầy sẽ sinh ra quả báođời sau mà Luật Nghiệp Báo đã sắp xếp quả báo của mọi người một cách rõ ràng từ nhiều trăm năm về trước để khiến họ sống quay quần với nhau dọc theo bờ biển, hoặc có những người ở nước khác thì nhân duyên cũng khiến họ đi du lịch đến những nơi nầy. Thật vậy, chính nghiệp đã thúc đẩy những người có quả báo giống nhau đã tìm về ở chung một môi trường với nhau. Ví dụ có khoảng vài ngàn người trong quá khứ tạo nghiệp ác ởr ải rác khắp nơi trên thế giớiquả báo của họ khá giống nhau là phải chịu chôn vùi theo dòng nước bùn dưới chân một ngọn núi. 
 

Nhưng nhân duyên để họ quay quần về sống gần nhau dưới chân núi cần phải một thời gian là vài trăm năm sau, do đó khi mới đây chúng ta thấy trận nước bùn chôn người tại một hòn đảo ở Phi Luật Tân là có sự chuẩn bị nhiều trăm năm của Luật Nghiệp Báo mà thôi. Chưa chắc là những nạn nhân nầy đã từng tạo chung một nghiệp ác trong quá khứ. Có thể mỗi người tạo riêng cho mình mỗi nghiệp ác nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều chiêu thành một quả báo giống nhau nên nghiệp duyên đã thúc đẩy họ cùng định cư chung quanh bờ biển hay ngọn núi. Vì thế người nghiệp nặng thì chết, người nghiệp nhẹ hơn thì bị gãy chân, gãy tay, hay chỉ bị xây xát mà thôi.
 

Cũng có trường hợp nhiều người cùng chung tạo nghiệp, nhưng vì thiếu nhân duyên để gặp gỡ nên họ chia ra nhận quả báo riêng rẻ mỗi nơi khác nhau mặc dù quả báo khá giống nhau. Ví dụ, hai người bạn cùng phát tâm xây một cây cầu nhỏ cho dân làng đi lại dễ dàng trong mùa mưa. Vì đây là nghiệp thin, nhưng do tư tưởng và một số nghiệp khác không giống nhau nên đời sau một người sinh ra ở Việt Nam còn người kia sinh ra ở Mỹ. Mặc dù sanh ra trong hai hoàn c???nh khác nhau, nhưng hai người đều thích học ngành xây dựng cầu cống và thành công giàu có gần như nhau.
 

Một hôm, Đức Phật đang ngồi trên núi Linh Thứu thì có nhiều đoàn tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất gồm một số tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo tôn giả Mục Kiền Kiên, đoàn thứ ba đi theo tôn giả Đại Ca Diếp, đoàn thứ tư đi theo tôn giả A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo tôn giả Ưu Bà Ly và đoàn thứ sáu đi theo sau Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Đức Phật mới nói với các tỳ kheo đang ở bên cạnh rằng:
 

- Những tỳ kheo cùng đi theo Xá Lợi Phất là những tỳ kheotrí tuệ lớn. Những tỳ kheo cùng đi với Mục Kiền Liên là những tỳ kheo có đại thần thông. Những tỳ kheo đi theo Đại Ca Diếp là những tỳ kheo thích tu khổ hạnh đầu đà… Còn những tỳ kheođi theo Đề Bà Đạt Đa là những tỳ kheo có tâm ác dục.

Đức Phật đã kết luận rằng:
 

- Ai cùng đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với người đó. Những tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất có cái nghiệp chung, tức là cộng nghiệp với Ngài về trí tuệ. Những tỳ kheo đi theo tôn giả Mục Kiền Liên là có nghiệp chung với Ngài về thần thông… Cho tới các tỳ kheo đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục. Cái nghiệp chung đó có từ quá khứ, hiện tạivị lai.
 

Ngày nay, chúng ta thấy cộng nghiệp hiển hiện rất thực tếcụ thể. Người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhaubiệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.
 

Trong số những nhà tiên tri lừng danh trên thế giới, chúng ta thấy ở Pháp vào khoảng thế kỹ thứ 16 có Nostradamus (1503-1566), còn ở Việt Nam có trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Những vị tiên tri nầy có khả năng tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra rất lâu chứng tỏ rằng Luật Nghiệp Báo đã sắp xếp quả báo của mọi người khá rõ ràng từ nhiều trăm năm, có khi từ nhiều ngàn năm, về trước. Chính Nostradamus có một sự nhạy cảm tâm linh cao độ khiến ông đã đọc được nhiều tiên đoán cho dù nó chưa có dấu hiệu nào nơi không gian hiện hữu cả.
 

Đất nước Việt Nam chúng ta là nơi đầy long mạch và tụ khí nên ngày xưa Cao Biền cởi hạc đi đến đâu là ếm long huyệt đến đó. Năm 785, Thiền Sư Định Không (730-808) nhân cho đào đất để đắp nền dựng chùa Dịch Bảng, Thiền Sư tìm thấy 10 chiếc khánh và một chiếc lư hương. Nhưng khi đem xuống sông để rửa thì một chiếc khánh chìm xuống nước. Cảm ứng việc nầy, Thiền Sư thánh nhập xuất khẩu nói rằng: mười chiếc là thập khẩu, viết chung lại là chữ Cổ, một chiếc rơi xuống chìm đi là thủy khử viết chung lại là chữ Pháp, cho nên Thiền Sư đặt tên cho mảnh đất thiêng liêng nầy là Cổ Pháp. Thiền Sư làm một bài thơ tiên tri 200 năm sau, nhà Lý sẽ làm vua, xuất thân từ làng Cổ Pháp:
 

 Đất trình pháp khí

Phẩm chất tinh đồng

Đưa Phật giáo đến chổ hưng long

Đặt tên là làng Cổ Pháp

Pháp khí xuất hiện

Mười chiếc chuông đồng

Nhà Lý hưng vương

Tám phẩm thành công
 

Trước khi viên tịch, Thiền Sư Định Không dặn đệ tửThiền Sư Thông Biện rằng: ”Đất Cổ Pháp nầy rất quan trọng, sau nầy có dị nhân đến phá hoại thì bậc vĩ nhân không thể xuất thế để cứu nước và làm cho Phật pháp hưng thịnh”. Thiền Sư Thông Biện ghi lời thầy dạy trong một ngôi tháp được dựng lên để thờ Thiền Sư Định Không ở phía Tây chùa Lục Tổ. Trước khi qua đời, Thiền Sư Thông Biện lại dặn cho đệ tửThiền Sư La Quý An (852-936). Quả nhiên năm 865, tức là khoảng 100 năm sau lời tiên tri của Thiền Sư Định Không, Cao Biền qua Giao Châu và sai đắp thành ở sông Tô Lịch mới biết là đất làng Cổ Pháp có khí đế vương nên đã cho đào 19 địa điểm để yểm phá. Thiền Sư La Quý An biết được và y theo lời Tổ dạy đã cho lấp lại 19 cái huyệt mà Cao Biền đã đào để yểm.
 

Y như lời tiên tri Thiền Sư Định Không trên 200 năm trước, năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi vua dựng lên nhà Lý và truyền được 8 đời (8 phẩm thành công).
 

Xin nói thêm, vua Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn, người sáng lập ra triều đại thịnh vượng và huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, người làng Cổ Pháp, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh lại là con không có cha. Tục truyền rằng, mẹ là Phạm Thị một hôm đi chơi chùa Tiêu Sơn nằm mộng đi lại với thần nhân rồi về có thai và sinh ra được đứa con trai. Khi đứa bé lên ba tuổi thì đem cho nhà sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân làm con nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn. Nhà sư Lý Khánh Vân sau nầy là Sư Vạn Hạnh. Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà tiền Lê đến chức Tả Thân Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi Lê Long Đỉnh mất thì Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Lúc bấy giờ lòng người đã oán hận nhà tiền Lê nên ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Vua Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp bèn định đời đô về La Thành. Tháng 7 năm 1010 thì khởi sự dời đô, 
 

Nhưng khi ra đến La Thành, Thái Tổ nằm mộng thấy rồng vàng hiện ra bèn đổi tên là thành Thăng Long, tức là Hà Nội ngày nay. Sau đó nhà vua cũng nằm mộng thấy Phật Bà hiện ra nên xuống chỉ làm ra chùa một cột mà vẫn còn là một kỳ quan tại Hà Nội bây giờ. Triều đại nhà Lý kéo dài đến đời thứ bảy là vua Lý Huệ Tông thì ông vua nầy không có con trai mà thường hay bịnh hoạn và thỉnh thoảng lại nổi cơn điên nên cứ uống rượu say ngủ cả ngày. Nhà vua chỉ có hai công chúa, người chị thì gã cho Trần Liêu còn người em là Chiêu Thánh công chúa tên là Phật Kim thì mới lên 7 tuổi được lập làm Thái tử. Tháng 10 năm 1224, vua Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào ở chùa Chân Giáo để đi tu. Chiêu Thánh công chúa lên ngôi tức là vua Lý Chiêu Hoàng và là vị vua cuối cùng của triều Lý. 
 

Bấy giờ mọi việc triều chính đều nằm trong tay Trần Thủ Độ mà Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái Hậu và cho cháu là Trần Cảnh vào làm chức Chính Thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng. Nhà Lý đến đây là hết, làm vua được 216 năm và truyền ngôi được 8 đời. Một hôm Huệ Tông đang nhổ cỏ ở sân chùa Chân Giáo, Trần Thủ Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: ”Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi”. Huệ Tông nghe thế, phủi tay đứng dậy nói rằng: ”nhà ngươi nói ta hiểu rồi”. Được vài ngày, Thủ Độ cho người mời Huệ Tông, Huệ Tông biết, vào nhà sau thắt cổ tự vận. Năm Ất Dậu, 1225 Trần Cảnh lên ngôi lúc mới 8 tuổi lấy hiệu là Trần Thái Tông để khai nguyên cho cơ nghiệp của nhà Trần. 
 

Trở lại vần đề Nghiệp Quả thì hiện nay có một tai họa chung mà toàn thể nhân loại phải gánh chịu đó là ngày tận thế. Vào năm 1988 có một vẫn thạch lớn cắt ngang quỹ đạo của địa cầu tại một nơi mà địa cầu vừa mới đi qua, Các nhà thiên văn còn e ngại một sự gặp gỡ tương tự như thế xảy ra vào lúc khác. Nếu có sự va chạm lớn như vậy, chắc chắn đó là ngày tận thế của nhân loại cũng như trên 65 triệu năm về trước, những vẫn thạch đã tiêu diệt tất cả mọi loài khủng long. Thêm nữa với những kho nguyên tử mà con người tồn trữ ngày nay đủ sức tàn phá và tiêu diệt toàn thể nhân sinh trong trái đất nầy nếu con người cứ mãi điên cuồng chạy theo để thỏa mãn lòng tham vô đáy của họ. Thật ra tận thế là một quả báo chung của toàn thể nhân loại vì sự sống của mình mà con người thường xuyên tạo các nghiệp phá hoại sự sống lẫn nhau. 
 

Những con vật lớn ăn thịt các loài vật nhỏ bé hơn, con cọp mạnh đi bắt con dê yếu đuối. Cá lớn nuốt cá con và con người thì mưu toan giết hại lẫn nhau, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu… Quốc gia lớn đè ép quốc gia nhỏ, ngay cả tôn giáo nầy cũng muốn thanh toán tôn giáo kia. Nếu nhân loại cứ bạo tàn hủy diệt sự sống lẫn nhau thì ngày tận thế sẽ đến gần hơn. Còn như nhân loại biết bồi đắp giữ gìn sự sống cho nhau thì chính họ tự tay đẩy ngày tận thế xa ra mãi mãi. Nhưng đối với dòng luân hồi sinh tử, tử sinh vô tận tiếp nối mãi mãi thì cái chết lúc tận thế có gì quan trọng để chúng ta sợ hãi đâu? Nếu chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh để tích lũy phước đức và công đức cho được viên mãn thì tận thế hay không đối với người tu Phật chẳng qua chỉ là một sự chuyển tiếp từ cuộc sống ở một thế giới nầy sang một thế giới khác mà thôi. Chẳng hạn như cõi Tây phương Cực Lạc để có cuộc sống an vui tự tại hơn. Sắc thân của con người ví như một quán trọ và tâm thức ví như người khách trọ. Nếu quán trọ nầy không ở được thì người khách trọ vào quán trọ khác. Không có gì là quan trọng cả. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21152)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 21974)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 20445)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 42678)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 22166)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 42433)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 25397)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 24933)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 19397)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 29511)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 22182)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 35674)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 22462)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 31639)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 13509)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 27441)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 20236)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 18436)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 27774)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 20173)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 20054)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 30731)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 20083)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 35311)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 40708)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 33212)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 19461)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 26775)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 20574)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 19087)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 25069)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18892)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 34488)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 18406)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 18428)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16882)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 19421)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 21730)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 19356)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 21006)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 16132)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 22019)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15855)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 16495)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 13943)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 15450)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 15894)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 31233)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 13709)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 15592)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM