Ngôi Chùa Cổ Trên Đồi Trại Thủy
Cổng chùa khép lại. Khách thập phương đã về. Trong Tịnh thất, ngọn đèn dầu leo lét, bất động trên bàn Phật, cháy suốt ngày lẫn đêm, tạo thành một không gian tĩnh mịch, u huyền. Nơi đó, sáng chiều hai buổi đều đặn lời kinh Kim Cang được trì tụng từ vị sư già nghe mà thấm thía, siêu thoát làm sao: "Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát. Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam niệu tam Bồ đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?" Thật là hy hữu thay, bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai hay khéo hộ niệm cho các vị Bồ Tát. Khéo phú chúc cho các vị Bồ Tát. Bạch Đức Thế Tôn! Người thiện nam, kẻ thiện nữ phát khởi tâm Bồ đề cầu chứng quả vị vô thượng chánh đẳng, chánh giác, thì làm sao tâm được an trụ, tâm được hàng phục?
Cứ thế, lời kinh khi trầm, khi bổng, lúc nhặt, lúc khoang, hòa cùng tiếng chuông gia trì thấm sâu vào lòng người sống trong ngôi chùa cổ thầm lặng bao thời gian. Dù đêm mưa ngày nắng; dù mùa hạ, mùa đông cuộc sống tương chua, chao mặn vẫn thanh thản như mây trời giăng giăng trên đồi Trại Thủy.
Có ai, khách thập phương một lần viếng thăm ngôi chùa cổ sẽ cảm nhận được từng lối mòn rêu phong, từng vách đá xám xì theo năm tháng, từng vách tường vôi loang lỗ đã được xông ướp bao lời kinh, tiếng kệ, bao hình ảnh thâm trầm, từ tánh đức từ bi của những vị sư già chân tu, thật đức.
Khuya nay, chú tiểu đóng chuông, đã đọc lời kệ rằng:
"Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới
Thiết vi u ám tất giai văn
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác..."
Dịch:
Nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới
Thiết vi u ám thảy đều nghe
Nghe rồi thanh tịnh chứng viên thông
Tất cả chúng sanh thành chánh giác.
Tiếng chuông đã đi vào lòng người dân Phương Sài, Phước Hải, Xóm Xưởng... một cách êm đềm, an tịnh. Người dân họ sống theo giờ giấc của tiếng chuông chùa cổ để thức dậy giòng gánh, bán buôn. Đúng là Phật pháp tại thế gian, chẳng lìa thế gian để có Phật pháp. Hình ảnh mái chùa, câu kinh lời kệ, tiếng chuông nhịp mõ đã bao đời nuôi lớn những tâm hồn Phật sống chung quanh dưới chân núi. Gầy dựng, bồi đắp niềm tin yêu nơi Phật pháp, người dân làng đem sức sống của mình để cúng dường từng thúng khoai, thúng nếp cho chùa, ủng hộ chúng Tăng. Ấy là tấm lòng, là niềm tin nơi Phật pháp. Thời gian có xóa nhòa qua bao cuộc vô thường thiên biến nhưng tấm lòng hộ pháp của dân làng quanh ngôi chùa cổ thì bất di.
Dưới những tàng cây Bồ đề, những rặn cành phượng vĩ, những giàn thanh long đỏ ối đã điểm xuyết cảnh vật nên thơ, dắt dẫn những tâm hồn của bao thi nhân, mặc khách đến viếng cảnh chùa mà nên câu thi phú:
"... Mõ ấm chuông ngân nhạc nhiệm mầu
Lời kinh chưa thuộc được trăm câu
Nhưng tư tưởng niệm Nam Mô Phật
Huyền diệu thoa êm những vết sầu."
(Ngát trầm hương - Tâm Tấn)
Cũng trong tâm hồn văn chương, thi phú ấy, tác giả "Hoa khế lưng đồi" đã viết trong truyện: Màu áo nâu sòng: "Bên cạnh Hòa thượng Trí Thủ, Trí Nghiêm, tôi còn được quen với Hòa Thượng Chí Tín trụ trì chùa Long Sơn nằm sát cạnh trường Bồ Đề. Đứng bên gốc cây sứ hoa vàng nhìn xuống sân trường, nhìn đám học sinh ngây thơ nhảy giỡn hay nhìn đoàn nữ sinh cầm tay nhau chầm chậm bước trên lối đi, nhìn các thầy cô giáo nghiêm trang nề nếp... tôi nghĩ rằng thầy trò chúng tôi đã ghi những nét dễ thương nơi tâm hồn Hòa Thượng. Rồi còn thầy Thích Phước Sơn, Thích Minh Tuệ... Hiệu trưởng của trường; rồi Thích... Thích... nhiều lắm kể sao cho đủ, kể sao cho hết. Và vậy là bao nhiêu khổ đau của cuộc đời tôi như được xoa dịu, tâm hồn tôi như được an ủi..." Ấy chính là Phật pháp tại thế gian, Phật pháp tại ngôi chùa cổ trên đồi Trại Thủy đã giảng dạy cho bao tâm hồn, vơi đi nhiều nỗi niềm đau thương của nhân thế.
Rải rác trên những lối mòn, dưới các bóng cây rậm của những đêm trăng còn in đậm dáng dấp của vị sư già tay lần tràng hạt ung dung thả bộ, một tâm hồn thư thái, an nhiên. Tâm hồn này là sức sống, của ngôi chùa cổ mà trải qua bao thời gian vẫn ẩn tu như chưa hề xao lãng, dầu cuộc sống của thế nhân bao cuộc phế hưng.
Đêm nay trời mưa lớn, gió từ biển khơi thổi mạnh, đập vào sườn núi làm tan tác lá hoa trên đồi, làm gãy đổ những giàn thanh long đã hết trái. Cảnh đời chuyển động. Biển đời chuyển động, dậy sóng muôn trùng lá bay, cành gãy. Điêu linh của đêm mưa bão. Động! Từng sát na động! Từng phút giây động! Bản chất của thế gian, như từ vô lượng kiếp.
Tỉnh! Trong thiền thất của vị sư già, tỉnh! Tỉnh như ngọn đèn dầu yên tỉnh. Sáng mà không lay. Cháy mà không chao động, để nghe lời kinh Kim Cang của khuya nay trầm hùng, thanh thoát của vị sư già đang kiết già trên bồ đoàn:
"Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điển
Ứng tác như thị quán"
Dịch: Tất cả các pháp hữu vi như giấc mộng, như huyễn hóa, như ráng nắng, như ảnh tượng, như sương mai, như điện xẹt. Cần phải thấy biết như vậy.
Mưa tạnh dần, thưa hột. Gió thổi nhẹ, mây tan. Nắng lên dần, sưởi ấm lá hoa triền đồi qua đêm rơi rụng. Mặt trời lên cao, vạn vật sưởi mình trong nắng, tiếp tục vươn lên đầy sức sống. Ngôi chùa cổ muôn đời vẫn còn đó, còn như là chứng tích của thời gian, của bao cuộc vô thường, phế hưng. Của bao lớp người đến đi không định, nhưng luôn vẳng nghe lời kinh mầu nhiệm. Lời kinh lòng, Phật dạy khi xưa:
Gate! Gate! Paragate! Parasamgate! Bodhi svaha!
Nguyên Siêu