Một
cây cầu có thể đưa hết tất cả người, súc vật, hàng hóa đi qua trên đó. Đưa qua hết thảy, không kể sang hèn quí tiện. Cái chính là có đưa qua hết - tất cánh độ khứ - được hay không? Nếu không qua lọt, hoặc đi qua một cách khó khăn thì đích thị là cầu khỉ rồi. Hoặc đôi khi người qua rồi, bóng còn kẹt lại bên cầu.
CHUYỆN CON NGỰA KIỀN TRẮC
Một
trong bảy hiện tượng sanh cùng một ngày với Thái tử Tất-đạt-đa: Thái tử, Công chúa Da-du, Ca-lưu-đà-di (Kaludàyin), Xa-nặc (Channa), Kiền-trắc (Kanthaca), voi báu và cây Bồ-đề - theo kinh tạng Pàli.
Kiền-trắc
vì thế là một con ngựa nổi tiếng, đáng kể nhất với công lao đưa Thái tử
vượt thành xuất gia. Truyền thuyết về chuyến đi này cho tới nay vẫn còn
đọng vẻ hùng tráng. Thái tử cưỡi trên lưng ngựa bay qua sông. Xa-nặc bám theo sau đuôi ngựa. Có chỗ nói chư Thiên đã nâng gót chân ngựa bay qua cổng thành, hoặc trời Đế-thích hóa phép cho mấy tên lính canh cổng ngủ gục, và cũng có thể Xa-nặc biết một ngõ sau nào đó, để dẫn Thái tử và con ngựa đi qua êm thấm.
Đêm đó ba thầy trò đi hơn mười dặm đường, đến địa phận thành Tỳ-xá-ly (Vesali), qua sông Anoma (Nesa njarã)
thì trời vừa sáng. Tại đây dừng ngựa, cắt tóc, giao áo mão cho Xa-nặc đem về. Đó là chuyến đi cuối cùng của Kiền-trắc đưa Thái tử.
Trước
đó trong ngày hội kén rể của vua Thiện Giác, với sức phi nhanh của Kiền-trắc, đã bỏ rơi các con ngựa của các công tử khác đến hai vòng đua.
A-nậu-lâu-đà kêu lên:
- Không ai có thể sánh với con Kiền-trắc.
Cuộc
thi phải đổi sang cách khác. Người ta dẫn ra một con ngựa hung hăng bất
trị, giao hẹn người nào cưỡi lên lưng nó được là thắng cuộc. Rốt cuộc cũng chỉ có Thái tửđiều phục ngựa dữ, thêm một lần thắng.
Về chàng Xa-nặc, sau này Thái tửthành đạo, Ngài trở vềhoàng cung, Xa-nặc cũng đi theoxuất gia. Chú Sa-di này ỷ lại vào sự thân cận của mình với đức Thế Tôn, lòng tự phụ, tự đắc đối với “Đức Phật của chúng ta, giáo pháp của chúng ta”, đã trở thành một nhân vật ương ngạnh, cứng đầu trong
tăng đoàn, không ngán một ai. Điều này gây trở ngại đến nỗi trước giờ đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, các Trưởng lão phải hỏi Ngài cách đối xử với Xa-nặc. Đức Phật dạy “mặc tẩn”. Sau đó Xa-nặc hổ thẹn, sửa đổi và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Vị Trưởng lão này sung sướng nói lên bài kệ:
Sau khi nghe chánh pháp Vị ngọt lớn pháp lớn Do nhất thiết thắng trí Thuyết giảng và trình bày Ta dấn thân trên đường Đường đưa đến bất tử... (Trưởng Lão Tăng Kệ 69)
CON NGỰA CỦA NGÀI HUYỀN TRANG
Chuyến
Tây du cầu pháp của ngài Huyền Trang xảy ra vào đời Đường Thái Tông (629) Con đường bộ từ kinh đô Trường An về biên giới phía Tây Trung Hoa,
qua vùng Tân Cương, sa mạc Qua-bích (Gobi), qua 24 nước Trung Á, vượt đèo Thiết Lĩnh núi Hy Mã, đến thành Vương Xá, cả thảy khoảng mười ngàn cây số. Trên đường đi Ngài dùng ngựa, có khi tự mua sắm, có khi được vua
chúa dâng tặng...
Trong lúc chuẩn bị ra khỏi địa phận cuối của Trung Hoa để băng qua sa mạc Qua-bích, Ngài được một ông già bản xứ đề nghị đổi cho con ngựa sắc lông màu hung đỏ, gầy gò, già nua, nhưng đã qua lại đoạn đường sa mạc hơn 30 lần nên rất cần thiết. Sau khi qua khỏi
năm phong hỏa đài (trạm gác), được tặng túi nước và chỉ dẫn đường đi, Ngài và con ngựa đi dần vào sa mạc. Suốt một ngày đi trong bão cát, Ngài
bị lạc đường không tìm ra suối nước, và rủi ro hơn, lại tuột tay làm rơi túi nước hộ thân. Ngài đã quay ngựa về hướng Đông, định trở lui tìm trạm gác, nhưng đi một khoảng lại ân hận, bèn phát thệ “Thà tiến về phương Tây mà chết”.
Suốt bốn đêm năm ngày giữa bãi cát mênh mông
nóng bỏng, không một giọt nước, người và ngựa mệt lả, nằm lịm bên phiến
đá. Chợt nửa đêm một trận gió mát lạnh thổi qua, Ngài hơi tỉnh lại, con
ngựa cũng gượng lên được. Đến sáng đi một khoảng con ngựa vùng chạy sang lối khác, nhờ bản năng nó đã đánh hơi được chỗ có cỏ và nước. Quả nhiên tìm ra con suối Dã Mã, cứu tinh của khách qua sa mạc. Từ đó mất thêm hai ngày hai đêm mới vượt qua hết chặn đường khốc liệt.
Ngô Thừa Ân khi viết lại chuyện Tây Du cũng để cho con ngựa của thầy Tam Tạng góp một phần công đức trong chuyến thỉnh kinh.
Một
lần trong vô số lần gặp yêu, thầy Tam Tạng bị con quái Huỳnh Bào hóa phép biến thành con cọp, nhốt Ngài trong cũi. Đại đệ tử Tôn Ngộ Không đã
bị thầy từ, trở về động Thủy Liêm chơi với khỉ, còn hai đồ đệ Sa Tăng, Bát Giới chẳng hay biết gì. Ngựa Kim - vốn không phải ngựa thường, là một con rồng bị phạt, được Bồ-tát Quan Âm cho làm ngựa đưa thầy thỉnh kinh để đoái công chuộc tội - nóng ruột thầy, nửa đêm hóa thành mỹ nữ, đến chỗ Huỳnh Bào dâng rượu, múa hát rồi tìm cáchhạ thủ, bị Huỳnh Bào võ nghệ cao, đâm cho một giáo phải hóa thành rồng, bay ra khỏi cung điện.
Sáng hôm sau, Sa Tăng ra chuồng ngựa thấy con ngựa hổn hển,
lông ướt đẫm mồ hôi, một bên chân có vết thương, bèn ngạc nhiênđến gầnvuốt ve. Con ngựa phát thinh nói:
- Sư phụgặp nạn ở trong triều vua, hai anh mau tìm cách cứu thầy.
Sa Tăng hết hồn toan bỏ chạy, bị ngựa cắn áo kéo lại nói:
- Em không phải ngựa thường...
Rồi
kể lại đầu đuôi câu chuyện mình đánh với yêu, xúi Sa Tăng đi cầu viện TônHành Giả mới xong. Sa Tăng đến động Thủy Liêm, bị Hành Giả làm mặt lạ, sai khỉ con rượt đuổi. Đến Bát Giới, Bát Giớilập mưu kế, biết tánh Hành Giả cao ngạo, tự ái nên lập kế nói khích. Sau một hồi quì lạy, rồi kiếm chuyện nói thầy nhớ, sai mình đi tìm anh. Hành Giả không tin, tra gạn đôi ba phen, Bát Giới mới tỏ thật chuyện thầy mắc nạn. Hành Giả nói:
- Khi ra đi ta có dặn, gặp yêu nhớ xưng tên ta là đại đồ đệ của thầy, thì yêu quái nào dám hành hung.
Bát Giới:
-
Nếu không xưng tên anh thì còn khá. Bởi kể tên anh, yêu quái mới làm hung, nói: “Tề Thiên là con khỉ ốm, tài cán bao lăm mà đem ra dọa.”
Hành Giảnổi giận, hét lớn:
- Cha chả! Vậy là quá lắm, để ta đi tìm nó đập một trận. Còn chuyện cứu thầy tính sau. Rồi xách thiết bảng chạy như giông.
CHÚ TIỂU NGỰA
Tôi có đọc câu chuyện lâu quá không nhớ đến tên người, nhưng được ghi trong phần cảm ứng của kinh Pháp Hoa.
Một
vị tăng có thói quen, khi đi đến nhà đàn-việt, thường trì thầm bộ Pháp Hoa. Thầy thường cưỡi ngựa, đường xa trì trọn bộ, đường gần một vài phẩm. Lâu dần thành thói quen, cứ lên lưng ngựa, từ chùa đi hoặc từ nhà đàn-việt về, đều trì tụng Pháp Hoa.
Sau này con ngựa của thầy già
chết, thầy nằm mộng thấy nó sanh làm con trai một nhà hàng xóm. Ba năm sau, thầy đi qua xóm đó, có chú bé ba tuổi chạy ra chào, thưa rằng:
- Thưa thầy, thầy là thầy con.
Rồi
theo thầy về chùa tu. Lớn lên chú không thể học được, chỉ có dạy truyền
miệng bộ kinhPháp Hoa là tụng thuộc lòng thôi. Như thế cho đến suốt đời, đến khi chết điềm lành rất nhiều.
Loài súc sanh không thể nói là không cảm được Phật pháp.
CON NGỰA CỦA QUAN HUYỆN ÚY
Thiền
sư Tự Bảo ở Động Sơn, khi làm tăng tu theo hạnh đầu-đà, giới luậtcẩn thận. Tham vấnthiền sư Giới, được phát minh tâm địa. Ở hội Ngũ Tổ, sư Giớùi làm chủ tự. Một hôm Hòa thượng Giới bệnh, sai cư sĩ lấy gừng sắc thuốc, bị Sư không cho. Hòa thượng phải bảo đem tiền đến, Sư mới trao gừng. Nhân đây Sư có danh là “Ông thầy bán gừng.”
Khi Sư trụ trì núi Qui Tông, có lần Sư xuống núi, giữa đường gặp lúc xe quan Huyện Úy đi ngang. Lính nạt bảo tránh đường. Sư đứng nép bên đường. Con ngựa kéo xe quan Huyện Úy thấy Sư liền quì mọp. Sư nói: “Súc sanh này cũng biết người.” Quan Huyện Úy xuống xe đảnh lễ Sư, sau đó ngựa mới chịu chạy.
CẦU ĐƯA LỪA, ĐƯA NGỰA
Một
công ánnổi tiếng là “Cầu đá Triệu Châu”. Thành Triệu Châu có cây cầu bằng đá do Lý Ưng kiến tạo. Vị tăng đến hỏi Triệu Châu:
- Từ lâu nghe danh cầu đá Triệu Châu, mà đến đây chỉ thấy cây cầu khỉ.
Triệu Châu đáp:
- Xà-lê chỉ thấy cầu khỉ mà chẳng thấy cầu đá Triệu Châu.
- Thế nào là cầu đá?
- Đưa lừa qua, đưa ngựa qua.
Câu
trả lời của Triệu Châuhết sứcđơn giản. Là công án nên chúng ta không thể suy nghĩ, toan tính gì trên đó. Nhưng theo thường tình thử gẫm xem. Một cây cầu có thể đưa hết tất cả người, súc vật, hàng hóa đi qua trên đó. Đưa qua hết thảy, không kể sang hèn quí tiện. Cái chính là có đưa qua hết - tất cánh độ khứ - được hay không? Nếu không qua lọt, hoặc đi qua một cách khó khăn thì đích thị là cầu khỉ rồi. Hoặc đôi khi người qua rồi, bóng còn kẹt lại bên cầu, như hồi nhỏ tôi đọc đâu đó một bài thơ dịch, thấy có lý:
Hôm nao đứng bên cầu Nhìn sông, em cúi đầu Chiều nay anh thả lưới Vớt lại bóng yêu kiều.
Vì
vậy mọi khi tụng kết thúc bài Bát Nhã: “Yết đế, yết đế...”(bản chữ Hán dịch: Độ khứ, độ khứ...), mình hiểu là đưa qua, đưa qua... tôi lại băn khoăn cầu nguyện cho mình đưa qua hết mọi thứ trên đời.
Về cách đối đáp của thiền sưTriệu Châu, có nhiều đoạn thú vị, tưởng cũng nên chép ra đây cho vui:
* Trấn phủ Đại Vương hỏi Triệu Châu:
- Sư được bao nhiêu tuổi, còn mấy cái răng?
Sư đáp:
- Chỉ có một cái răng.
- Đâu ăn được cái gì?
- Tuy chỉ có một cái - mà thứ gì cắn cũng đứt.
Có bà lão đến hỏi:
- Đàn bà là thân của năm chướng, làm sao thoát?
Sư đáp:
- Hãy nguyện cho mọi người đều sinh lên cõi trời, còn cái thân của bà thì vĩnh viễntrầm luân.
MÃ LANG PHỤ
Đời
Đường đất Thiểm Tây, có một thiếu nữxinh đẹp, bao nhiêu người đến cầu hôn. Điều kiện của người đẹp cũng lạ: “Trong một buổi phải tụng thuộc phẩm Phổ Môn” . Có hai mươi tám người thi đậu. Điều kiện sau hơi khó một
chút, để gạn lọc: “Trong một ngày tụng thuộc kinh Kim Cang.” Còn lại mười người trúng tuyển. Thôi thì kỳ hẹn ba hôm phải tụng thuộc trọn bộ Pháp Hoa. Chỉ còn một mình chàng họ Mã kiên trìđáp ứng lời yêu cầu.
Lễ
cưới tổ chức long trọng, mời nhiều bạn bè tham dự. Ngay hôm ấy, tiệc chưa tan, quan khách còn đủ, cô dâu bỗng lăn ra chết, thân thể sình trương rồi rã nát trước mắtmọi người. Chàng họ Mã chôn cất - không biết
có còn đủ lòng thương tiếc?
Vài hôm sau có một vị tăng già đến thăm lấy gậy bới hài cốt ra chỉ còn thấy một bộ xương vàng. Sư nói:
- Đây là Bồ-tát Quan Âm thương các người mà lập phương tiệngiáo hóa.
Nói rồi bay mất. Từ đó dân vùng Thiểm Tây tin phụng Phật pháp rất đông, nhất là đối với đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
Như Đức
- - -
Tinh
tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến, bỏ lại sau lưng con ngựa gầy hèn. (Pháp cú 29)
Các ngươi hãy điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành. (Pháp cú 380)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt độngPhật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
Thực hànhTịnh độ là đơn giản. Cách tu tập này không yêu cầuhành giả phải được học về tư tưởngPhật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
Thiền pháptỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.