Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Nữ Trong Chánh Pháp

27 Tháng Mười Một 201907:47(Xem: 4504)
Phụ Nữ Trong Chánh Pháp

Phụ Nữ Trong Chánh Pháp

Nguyên Giác

Giây phút giải thoát

 

Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.

Khái niệm nữ tính và nam tính biến mất được nêu ra trong Kinh SN 5.2, khi nữ A La Hán Soma trả lời Ma vương bằng bài kệ:

Nữ tính không tạo ra chút gì khác biệt, khi tâm định tĩnh, khi tri kiến hiển lộ không ngưng đối với người nhìn đúng được Chánh Pháp. Đối với  người có thể khởi tâm ‘Tôi là một người nữ’ hay ‘Tôi là một người nam’ hay ‘Tôi là bất cứ gì’ – thì chỉ thích nghi cho Ma Vương nói chuyện.” (1)

.

Tới đây, chúng ta thử nêu lại câu hỏi từ ngàn xưa: người nữ có thể thành Phật hay không?

Các luận sư Đại Thừa nói rằng người nữ có thể thành Phật. Tuy nhiên, Kinh Tạng Pali nói rằng người nữ không có thể thành Phật, cụ thể là trong Kinh MN  115, bản Việt ngữ là Kinh Đa Giới do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch. (2)

Đại sư Anālayo thảo luận về câu hỏi đó trong bài viết “The Bahudhātuka-sutta and its Parallels. On Women’s Inabilities(3) bằng cách đối chiếu Kinh Trung Bộ MN 115 của Tạng Pali với bản tương đương trong Trung A Hàm của Hán Tạng là MA 181 – chúng ta có thể đọc bản Việt ngữ do Thầy Tuệ Sỹ dịch ở (4) và sẽ thấy bất ngờ rằng Đức Phật không hề nói gì về người nữ hay nam trong Kinh MA 181.

Đại sư Anālayo trong bài cũng đối chiếu với một số kinh khác về cả ngữ và nghĩa, rồi nhận định rằng Kinh MA 181 gần với lời Đức Phật hơn, và tin rằng Kinh MN 115 trong Tạng Pali đã bị chư tăng đời sau chèn thêm ý kỳ thị nam nữ vào. Nghĩa là, người nữ vẫn có khả năng thành Phật.

Cũng trong bài phân tích của ngài Anālayo, trong phần ghi chú (nơi các trang 184 và 185) cũng dẫn ra một số học giả khác nêu nghi vấn rằng ý kỳ thị nam nữ được được chư tăng đời sau chèn vào Kinh MN 115.

Trong đó, học giả Joaquín Pérez Remón phân tích về ngữ văn và mạch văn. Đặc biệt Giáo sư Yuichi Kajiyama đưa ra nhận định rằng phần thêm vào ý kỳ thị nam nữ (chỉ có nam mới có thể thành Phật) xuất hiện sau khi Tăng Đoàn phân ra nhiều bộ phái, và “lời khẳng định rằng một người nữ không có khả năng thành Phật xuất hiện có lẽ là trong thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch” và một thời gian sau, tư tưởng này được chèn vào Kinh MN 115.

.

Nhiều học giả cũng nêu lên một nghi vấn về kinh ngụy tạo, do chư tăng đời sau đưa vào Kinh Tạng Pali. Bản Việt ngữ do HT Minh Châu là Kinh Rắn Đen AN 5.230, so sánh loài rắn đen với phụ nữ. Kinh này trích như sau:

Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong con rắn đen. Thế nào là năm? Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc độc, lưỡi chia hai, làm hại bạn. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong con rắn đen.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong nữ nhân. Thế nào là năm? Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc độc, lưỡi chia hai, làm hại bạn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nọc độc của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn hay tham đắm. Ở đây, này các Tỷ-kheo, lưỡi chia hai của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn nói hai lưỡi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nữ nhân làm hại bạn như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn ngoại tình!” (5)

Học giả Bhikkhu Sujato, Trưởng ban biên tập trang SuttaCentral, nói rằng ông không tin kinh này do Đức Phật nói lên.

Ngài Sujato cũng đưa ra các thống kê cho thấy rằng người nam bạo lực hơn người nữ, nam ngoại tình hơn nữ, nam mê sắc dục hơn nữ… Bài phân tích của ngài Sujato ở link (6).

.

Tới đây, chúng ta nói về một công án Thiền liên hệ tới một Thiền sư ni Nhật Bản.

Thiền sư ni này tên là Kakuzan Shido (1252-1306). Bà là người sáng lập ngôi chùa Tokeiji, nơi này cũng đón nhận và chăm sóc phụ nữ bị bạo lực -- nơi này được mệnh danh là nơi tạm trú đầu tiên cho phụ nữ bị lạm dụng trên thế giới.

Thiền sử kể rằng, vào năm 1304, Thiền sư Tōkei (tên thầy này là ‘Peach-tree Valley' nghĩa là ‘Thung lũng cây đào’) trao ấn chứng (inka) của dòng Lâm Tế cho Ni sư Shido, người sáng lập Chùa Tōkeiji. Vị sư trưởng tràng không chấp nhận việc trao ấn chứng đó, nên đưa ra câu hỏi để thử nghiệm Thiền sư ni Shido rằng trong truyền thống, người được nhận ấn chứng phải nói một bài thuyết giảng, và vị ni sư này có thể nói lên Chánh pháp được chăng.

Ni sư Shodi bước tới trực diện vị sư Trưởng tràng, rút ra con dao găm dài 10 inches (khoảng 2 tấc rưỡi) – loại dao găm được quý bà trong giai cấp võ sĩ đạo Nhật Bản mang thường trực. Bà đưa dao găm lên cao: “Chắc chắn rằng một Thiền sư trong truyền thống chư tổ nên khởi thân từ ghế cao và nói về sách. Nhưng tôi là một phụ nữ dòng chiến sĩ và do vậy tôi nên thuyết pháp khi mặt đối mặt với lưỡi kiếm rút ra. Sách nào tôi cần tới nữa?”

Vị sư Trưởng tràng nói, “Trước khi cha mẹ sinh ra, làm sao ngươi có thể nói lên Chánh pháp?”

Ni sư nhắm mắt một chặp. Rồi bà nói, “Sư có hiểu chăng?”

Vị sư Trưởng tràng nói lên dòng thơ ca ngợi Ni sư, “Một bầu rượu vang đã được dựng lên trong ‘Thung lũng cây đào’ – cặp mắt say thấy được các loài hoa xa vạn dặm.”

Câu chuyện tới đó là hết. Câu chất vấn trên của sư Trưởng tràng là dựa vào một tích phổ biến trong Thiền Tông Trung Hoa.

Ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn tham học nơi Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải. Sư học rộng hiểu nhiều, thông nhiều kinh điển, biện luận vô ngại nhưng chẳng ngộ đạo. Sau khi Bách Trượng tịch sư đến ở với Thiền Sư Quy Sơnsư huynh đệ đồng môn của sư. Quy Sơn bảo sư: “Hãy nói một lời trước khi cha mẹ chưa sinh.”

Hương Nghiêm không đáp được, bèn lật hết các kinh sách nhưng vẫn không tìm ra được. Sư xin Quy Sơn chỉ bảo, nhưng bị Quy Sơn khước. Sư tự than trách rồi về thất đốt hết sách vở. Sư từ biệt Quy Sơn ra đi. Sư bèn đến Núi Nam Dương, chú tâm làm ruộng, tu hành. Một hôm sư đang cuốc đất, lượm hòn đá ném trúng cây tre vang lớn. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư bèn trở về tắm gội thấp hương, nhắm hướng Quy Sơn đảnh lễ để cảm tạ.

Trước khi cha mẹ chưa sinh? Câu hỏi đó nên đặt lại trong một cách đơn giản hơn: “Hãy nói một lời trước khi thế giới hình thành?”

Trong Tạng Pali có Kinh SN 35.23 (còn gọi là Kinh Tất Cả -- The All Sutta), Đức Phật dạy rằng tất cả thế giới này chỉ là sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Thế giới này hiển lộ ra như thế, ngoài raĐức Phật bác bỏ hết.

Kinh này lời Đức Phật dạy: “Cái gì là tất cả? Chỉ là mắt và cái được thấy, tai và cái được nghe, mũi và cái được ngửi, lưỡi và cái được nếm, thân và cái được chạm xúc, tâm và cái được tư lường. Đó gọi là tất cả. Các sư, giả như có ai nói, ‘Tôi sẽ bác bỏ cái tất cả này và sẽ mô tả cái tất cả khác.’ Họ sẽ không có căn cứ nào cho chuyện như thế, vì đó chỉ là khoa ngôn, không chứng minh nổi và sẽ rơi vào ách nạn. Vì sao vậy? Bởi vì như thế ra ngoài giới vức của họ.” (7)

Kinh này quan trọng, có thể giúp chúng ta dò theo công án của Quy Sơn đưa ra, và rồi ngài Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi dội vào cây tre thì ngộ. Làm sao nghe một âm thanh mà có thể hiểu hết ý chỉ Thiền Tông?

Ni sư Shido trong chuyện kể đã trả lời bằng sự tịch lặng. Có nghĩa rằng, Ni sư chỉ cho sư Trưởng tràng về cái nghe tịch lặng. Và đó là khi thế giới chưa hình thành, là khi cái được nghe chưa hiển lộ.

Tất cả chúng ta đều có thể tu bằng công án. Các sư thường nói, chưa hiểu thì giữ nghi tình. Nhưng có một chỗ cần nêu, chữ “nghi tình” có thể làm nhầm lẫn, vì ám chỉ như “có cái gì”… Nếu chúng ta thay chữ “nghi tình” bằng chữ “tâm không biết” thì bất cứ khi nào nhìn vào “tâm không biết” đều sẽ tiếp cận rất gần với giải thoát, vì tỉnh thức như thế là đã lìa si, và tỉnh thức trong tâm không biết là đã lìa tham và lìa sân.

Nhìn cách khác, nhìn vào “tâm không biết” là nhìn rất gần vào cội nguồn khi thế giới chưa khởi lên, và trạng thái tỉnh thức trong “tâm không biết” là lìa cả ngũ uẩn ba thời, không dính gì tới ngũ uẩn trong quá khứ, vị lai hay hiện tại. Cũng chính là nghe tận nguồn khi cái được nghe chưa hiển lộ.

Bạn có thể thử nghe như thế. Hãy thử lắng nghe về cội nguồn khi cái “tất cả” chưa khởi lên. Không cần ngồi thiền, hãy cứ nghe như thế, lắng nghe tận nguồn và không dính vào bất kỳ những gì. Khi bạn tập như thế, đó là cái tự nhiên nhất. Vì trong cái nghe là bình đẳng, là Như thị, là Như thế: bạn không ép được cái nghe phải chỉ nghe cái này hay chỉ nghe cái kia. Khi lắng nghe như thế, và khi cái được nghe chỉ là cái được nghe, và chỉ thuần là cái được nghe mà không lựa chọn gì, tới một bạn sẽ thấy mình không còn dính gì tới tham sân si.

GHI CHÚ:

(1) Kinh SN 5.2 bản dịch Bodhi: https://suttacentral.net/sn5.2/en/bodhi

(2) Kinh MN 115, bản của HT Minh Châu: https://suttacentral.net/mn115/vi/minh_chau

(3) Bài của Bhikkhu Anālayo về MN 115: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/pdf/5-personen/analayo/bahudhatuka.pdf

(4) Kinh MA 181, bản dịch Thầy Tuệ Sỹ: https://suttacentral.net/ma181/vi/tue_sy

(5) Kinh Rắn Đen AN 5.230: https://suttacentral.net/an5.230/vi/minh_chau

(6) Sujato nói về Kinh Rắn Đen: https://sujato.wordpress.com/2010/12/05/is-this-sutta-true

(7) Kinh SN 35.23, bản HT Minh Châu: https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

Kinh SN 35.23, bản Bodhi: https://suttacentral.net/sn35.23/en/bodhi

Kinh SN 35.23, bản Sujato: https://suttacentral.net/sn35.23/en/sujato

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 86)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 103)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 127)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 145)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 146)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 147)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 251)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 201)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 271)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 223)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 226)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 202)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 254)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 326)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 315)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 428)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 309)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 353)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 463)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 424)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 351)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 622)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 345)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 419)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 406)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 422)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 435)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 425)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 360)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 476)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 814)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 805)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 669)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 974)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 500)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 438)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 543)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 560)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 539)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 534)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 712)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 603)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 758)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 732)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 702)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 696)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 660)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 734)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 709)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant