Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Gẫm Về Sự Bất Thối Chuyển Trong Kinh A Di Đà

28 Tháng Mười Hai 201918:56(Xem: 2890)
Suy Gẫm Về Sự Bất Thối Chuyển Trong Kinh A Di Đà

Suy Gẫm Về Sự Bất Thối Chuyển Trong Kinh A Di Đà  

Quảng Minh

 Nhất Mộng Sương



Chánh văn:

Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.

Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả; thị chư nhân đẳng giai đắc bất thối chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ.

Bản dịch của H.T Thích Trí Tịnh:

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Bản dịch của H.T Thích Trí Quang:

Thu tử, ý tôn giả nghĩ thế nào, tại sao bản kinh này mệnh danh thêm rằng Hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho? Thu tử, vì thiện nam hay thiện nữ nào nghe bản kinh này mà thọ trì, lại được nghe danh hiệu của các đức Như lai, thì thiện nam hay thiện nữ ấy được các đức Như lai cùng giữ gìn cho, được sự không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng. Thế nên, Thu tử, các người hãy tin nhận lời của Như lai nói, của các đức Như lai nói.

Thu tử, nếu có người nào đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, nguyện sinh quốc độ của đức A di đà phật, thì những người này cùng được sự không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, và đối với quốc độ ấy thì hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh. Do vậy, Thu tử, những người thiện nam thiện nữ ai tin thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc.

Bản dịch H.T Thích Tâm Châu:

Này Xá-lỵ-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao gọi là hết thẩy chư Phật hộ niệm kinh này? Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện namthiện nữ nào, nghe và thụ trì kinh giáo này đây, cũng như nghe được danh hiệu chư Phật, tất cả thiện namthiện nữ ấy, đều được hết thẩy chư Phật hộ niệm, được ngôi bất thoái trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các ông đều nên tin nhận lời tôi và lời chư Phật.

Này Xá-lỵ-phất, nếu có người nào đã phát nguyện rồi, nay đang phát nguyện hay sẽ phát nguyện, muốn được sinh sang nước Phật Di-Đà, người ấy chứng được ngôi bất thoái chuyển, trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác một khi đã sinh hay nay đang sinh, hoặc là sẽ sinh sang cõi nước kia. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các thiện nam tửthiện nữ nhân, nếu có tín tâm, cần nên phát nguyện sinh sang nước kia!

Bản dịch của thầy Thích Nhật Từ:

Này Xá-lợi-phất, theo ông tại sao Kinh này là Kinh được các đức Phật tán thán hộ niệm? Sở dĩ như thế, là vì bất cứ người nam hay nữ, biết được kinh này, và danh hiệu Phật Cực Lạc Tây Phương, thọ trì hết lòng, chánh niệm tỉnh thức, chuyên tâm niệm Phật, thì những người ấy, chư Phật hộ trì, cho đến khi được giác ngộ vô thượng. Vì thế các vị tin lời ta nói, như chư Phật nói.  

 

Này Xá-lợi-phất, ai đã phát nguyện, hoặc đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, sanh về Cực Lạc, thì ngay lúc nguyện, đã được bất thối nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đã có mặt tại Cực Lạc rồi. 

 

Bản dịch của Như Hòa:

Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao lại đặt tên là Kinh Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm? Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu của chư Phật, thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều đắc Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế ông Xá Lợi Phất! Các ông đều phải nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói.

Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh vào cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được chẳng thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi nước ấy, họ đã sanh, đang sanh hoặc sẽ sanh. Vì thế nên Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có ai tin tưởng thì hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy.

Bản dịch của cư sĩ Hạnh Cơ:

Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ thế nào? Vì sao kinh này được gọi là Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm? Thầy Xá Lợi Phất! Nếu có những vị thiện nam hoặc tín nữ nào, nghe được kinh này rồi thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, những vị đó đều được chư Phật hộ niệm, và sẽ được tiến tới mãi cho đến khi chứng được quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ bị thối lui. Vì thế cho nên, thầy Xá Lợi Phất, tất cả quí vị hãy tin nhận những lời mà Như Lai và chư Phật đã nói!

Thầy Xá Lợi Phất! Nếu có những người nào đã phát nguyện, hoặc đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện cầu vãng sinh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thì ở tại cõi nước kia, những người đó hoặc đã vãng sinh, hoặc đang vãng sinh, hoặc sẽ vãng sinh, đều không bị thối lui, mà sẽ tiến tới mãi cho đến khi chứng được quả vị giác ngộ cao tột. Vì thế cho nên, thầy Xá Lợi Phất, nếu có vị thiện nam hoặc tín nữ nào tin tưởng thì họ nên phát nguyện cầu vãng sinh về cõi nước kia.

Bản dịch Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến:

Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao kinh này được gọi là: Tất cả chư Phật đều hộ niệm? Xá-lợi-phất! Nếu những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nghe được kinh này mà thọ trì, cũng như nghe danh hiệu chư Phật, thì những kẻ nam, người nữ có lòng lành ấy liền được tất cả chư Phật hộ niệm, thảy đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Xá-lợi-phất! Vì vậy mọi người nên tin theo lời ta và chư Phật đã nói.

Xá-lợi-phất! Như có người nào trước đã phát nguyện, hoặc nay mới phát nguyện, hoặc sau này sẽ phát nguyện sanh về cõi Phật A-di-đà, thì những người ấy đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người ấy hoặc đã được sanh, hoặc nay được sanh, hoặc sau này sẽ được sanh về cõi ấy. Xá-lợi-phất! Vậy nên những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nếu có đức tin, nên phát nguyện sanh về cõi ấy.

Bản dịch của Cư sĩ Tuệ Nhuận:

Xá Lợi Phất ơi, ý ông thế nào ? Sao gọi kinh này là kinh “Nhất thiết chư Phật hộ niệm” ? Xá Lợi Phất này, nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào nghe kinh này rồi, mà chịu nhớ lấy cả những danh hiệu chư Phật sáu phương. Nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, hay thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, và được tới cõi A nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng hề lui chuyển. Vì thế cho nên, ông Xá Lợi Phất, cùng các ông đây đều nên tin chịu lời ta và lời chư Phật đã nói.

Xá Lợi Phất ơi, nếu có những người muốn sinh sang nước Phật A Di Đà, mà đã phát nguyện, hoặc nay mới nguyện, hoặc mai mới nguyện, thì những người ấy đều được tới cõi A nậu đa la, Tam miệu tam bồ để. Chẳng hề lui chuyển, và đều được sinh sang cõi nước kia. Ai đã phát nguyện thì đã sinh rồi, ai nay mới nguyện thì nay được sinh, còn mai mới nguyện, thì mai được sinh; bởi thế cho nên Xá Lợi Phất ơi, các thiện nam tử, các thiện nữ nhân, nếu có ai tin, thì nên phát nguyện, sinh sang nước kia.

 

Bản dịch của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành

Này Xá-lợi-phất, ý của ông nghĩ sao? Tại sao gọi là "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm"? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.

Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Bản dịch của Tại gia Bồ-tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ thế nào? Tại sao gọi là Kinh Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm? Này Xá-lợi Tử! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe Kinh này rồi thọ trì, cùng nghe được danh hiệu của các Đức Phật, thì những thiện nam tử thiện nữ nhân ấy đều sẽ được tất cả chư Phật hộ niệm và đều không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.Vì thế, Xá-lợi Tử! Các ông đều nên tin nhận lời Ta và lời của chư Phật nói.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, hay sẽ phát nguyện, và họ muốn sanh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà, thì những người ấy, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh về cõi nước kia, tất cả đều không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, Xá-lợi Tử! Trong các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu có ai tín thọ thì hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Bản dịch của Cư sĩ Chánh Sĩ

Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là “kinh tất cả các đức Phật hộ niệm”?  

Xá Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe được kinh nầy mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của các đức Phật, thì những người con trai lành, những người con gái lành đó đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  Cho nên, Xá Lợi Phất, các người đều phải tin nhận lời của ta và các đức Phật nói. 

Xá Lợi Phất, nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi nước Phật A Di Đà, thì các người đó đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở cõi nước đó, hoặc đã sanh về, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về. Cho nên, Xá Lợi Phất, những người con trai lành, những người con gái lành, nếu có lòng tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi nước đó. 

Trong sách Phật thuyết A Di Đà kinh yếu giải, Ngài Trí Húc giải thích:

A Bệ Bạt Trí, cõi này dịch là Bất Thoái:

            1. Vị Bất Thoái: Nhập dòng thánh, chẳng đọa vào địa vị phàm phu.

            2. Hạnh Bất Thoái: Luôn độ sanh, chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa.

            3. Niệm Bất Thoái: Tâm tâm lưu nhập biển Nhất Thiết Trí.

            Nếu dựa theo cõi này [để luận định] thì [các địa vị như] Sơ Quả trong Tạng Giáo, Kiến Địa trong Thông Giáo, Sơ Trụ trong Biệt Giáo và Sơ Tín trong Viên Giáo gọi là Vị Bất Thoái. Bậc Bồ Tát trong Thông Giáo, bậc Thập Hướng trong Biệt Giáo, bậc Thập Tín trong Viên Giáo thì gọi là Hạnh Bất Thoái. Bậc Sơ Địa trong Biệt Giáo, bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo thì gọi là Niệm Bất Thoái. Nay Tịnh Độ thì kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, mười niệm thành tựu vãng sanh trong Hạ Hạ Phẩm đều đắc ba thứ Bất Thoái. (…)

 

Đã nguyện đã sanh, nay nguyện nay sanh, sẽ nguyện sẽ sanh, nhằm tỏ rõ do tin tưởng mà phát ra lời nguyện thì lời nguyện ấy chẳng hư huyễn. Không tin sẽ chẳng thể phát nguyện. Không có nguyện, lòng tin cũng chẳng thể sanh. Vì thế nói: “Nếu có lòng tin, hãy nên phát nguyện”. Hơn nữa, nguyện là bằng khoán của lòng tin, là mấu chốt củahạnh, có vai trò quan trọng nhất. Nêu ra nguyện thì tín và hạnh đều nằm trong ấy. Do vậy, Phật ân cần ba lượt khuyên nhủ. Lại nữa, nguyện sanh về cõi ấy chính là hai môn Ưa Thích và Chán Lìa. Chán lìa Sa Bà, tương ứng với hai thứ hoằng thệ do nương theo Khổ ĐếTập Đế mà phát ra. Ưa cầu Cực Lạc, tương ứng với hai thứ hoằng thệ do nương theo Đạo ĐếDiệt Đế mà phát ra. Vì thế, đạt được chẳng thoái chuyển nơi đại Bồ Đề đạo

Hỏi: Nay phát nguyện thì chỉ có thể nói là “sẽ sanh”, sao lại bảo là “nay sanh?”

Đáp: Điều này cũng có hai nghĩa:

Một là, dựa trên cùng một kỳ hạn mà bảo là “nay”. Đời này phát nguyện trì danh thì lâm chung nhất định sanh về Tịnh Độ.

Hai là, dựa theo sát-na mà gọi là “nay”. Một niệm tương ứng thì sanh vào cõi kia trong một niệm ấy, niệm niệm tương ứng thì trong từng niệm đều sanh.

 

Diệu nhân, diệu quả, chẳng lìa nhất tâm. Như hai đầu cái cân, hễ đầu này chúc xuống thì đầu kia nâng lên cùng một lúc, cần gì phải đợi đến khi hết báo thân nơi Sa Bà mới sanh trong ao báu. Chỉ cần nay tín nguyện trì danh thì [nơi Cực Lạc] hoa sen rạng ngời, đài vàng hiện bóng, tức là đã không còn là người trong cõi Sa Bà nữa! Cực viên, cực đốn, khó nghĩ, khó suy, chỉ có bậc đại trí mới có thể tin tưởng chắc thật mà thôi! [Như Hòa chuyển ngữ]

 

Kinh A Di Đà Sớ Sao:

Sớ: Văn trước nói: “A Bệ Bạt Trí”, chính là văn đây nói nghĩa bất thối Bồ Đề vậy. Nhưng trước khi vãng sanh và sau vãng sanh, ý có hơi sai khác.

Sao: A Bệ Bạt Trí mà gọi rằng Bất Thối đó, chính là nói đối với quả Vô Thượng Bồ Đề không thối chuyển vậy. Song văn trước nói: “Người sanh nước kia đều đặng bực bất thối”.Văn đây nói: “Nghe kinh này và nghe danh hiệu Phật, thế đều đặng bực bất thối” thời chẳng đợi sanh về nước kia mà trước khi chưa sanh về, tức đã đặng thành tựu, thiện căn Bồ Đề không thể hư hoại; huống lại sanh về kia rồi mà có thối chuyển hay sao!

Lại có hai nghĩa: 1. Hiện thời không thối như trên đã nói. 2. Dầu người kia ít tuổi thọ, nhiều nghiệp chướng, chẳng đặng vãng sanh, nhưng nhờ sức chấp trì của mình đây và sức Phật hộ niệm, ắt qua đời sau với thiện căn Bồ Đề cũng chẳng tan mất, rốt ráo đặng sanh về cõi Phật kia. Người xưa nói: “Đời nay đã gieo các hột giống Bát Nhã này, dầu nay chưa tỏ ngộ, nhưng qua đời sau vừa ló đầu ra, mặc dầu ở trong tánh Bát Nhã sẵn sàng thọ dụng”, chính là nghĩa đây vậy.

Kinh A Di Đà Thiển Thích, H.T Tuyên Hóa giải thích:

Thứ tư là Lực dụng. Bộ Kinh này có những lực lượng gì? Đó là Bất thối. Bất thốitác dụng gì? - Chính là vãng sanh; được vãng sanh thì có thể được bất thối chuyển. Tu các pháp môn khác đều không được an toàn lắm, vì không có bảo hiểm. Giống như anh trì chú, trì được mấy năm, cảm thấy không có thành tựu gì rồi thôi không trì nữa; đó là thối lui đấy. Hoặc giả anh niệm Phật đã mấy năm, cảm thấy không có tiến bộ chi, lại lui sụt đi. Hoặc giả anh đời này không lui sụt mà đời sau lại lui sụt. Đời này anh rất tinh tấn niệm kinh, trì chú, nhưng chưa thành công, đến đời sau lại không tinh tấn mà bỏ xuôi đi. Tại sao thế? - Bởi vì "La-hán còn có mờ mịt khi trụ thai, Bồ-tát còn có mê khi cách ấm", đừng nói chi đến anh là một tên phàm phu trơn, La-hán một khi trụ thai cũng có thể quên mất thần thông đã có; Bồ-tát một khi đầu thai cũng còn bị mê đi, nếu gặp được thiện tri thức chỉ điểm cho phương pháp tu hành bèn có thể khai ngộ; nếu không gặp dược thiện tri thức chỉ điểm cho, thì đời này sẽ bị lui sụt, đời sau càng lui sụt thêm nữa, sẽ không dễ gì lại phát được tâm Bồ-đề. Nhưng nếu anh vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây thì không còn bị lui sụt nữa, chỉ có một mực tiến tới thôi, có thể được đến bốn thứ Bất thối (không lui sụt): Vị bất thối, Hạnh bất thối, Niệm bất thốiCứu cánh bất thối.

l. Vị bất thối: Khi anh sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây sẽ chứng được quả vị Phật. Anh sanh về nước kia, hóa sanh trong hoa sen; khi hoa nở sẽ thấy Phật nghe pháp, chứng nhập Vô sanh pháp nhẫn, không còn bị đọa lạc nữa.

2. Hạnh bất thối: Có một số người đời nay tu hành tinh tấn, đời sau lại biếng nhác, đó là tu hành không có tâm trường viễn. Nhưng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây thì sẽ không có biếng trễ nữa, mà chỉ có sự tinh tấn dõng mãnh tiến lên mà thôi.

3. Niệm bất thối: Ví như người tu hànhthế giới Ta Bà, hôm nay nghĩ đến việc tu hành đã qua phát sanh niệm tinh tấn, tinh tấn dược một thời gian cảm thấy khổ cực quá, chẳng bằng nghỉ ngơi cho được tự tại, rồi không tinh tấn nữa mà nảy sanh ý niệm lười biếng. Hạnh dầu không thối, nhưng niệm đã thối rồi. ÔÛ trong quá trình mấy mươi năm ngắn ngủi này, tâm biếng lười nhiều hơn tâm tinh tấn, niệm làm sao không thối chuyển được? Khi anh sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, ở đó ngày đêm sáu thời đều nghe thuyết pháp thì không thể nào có ý niệm thối thất tâm Bồ-đề được.

4. Cứu cánh bất thối: Khi sanh về thế giới Cực Lạc được hóa sanh trong hoa sen, thì bất cứ lúc nào cũng không thể lui sụt được. Không lui sụt là không lui rớt về địa vị phàm phu hoặc quả vị Tam thừa.

Một khi sanh về thế giới Cực Lạc thì sẽ được bốn thứ Bất thối, cho nên lớp huyền nghĩa thứ tư là lấy "Vãng sanh bất thối" làm lực dụng của kinh này. …

Muốn làm một cuộc lữ hành đến thế giới Cực Lạc, trước hết phải có chi phiếu. Người muốn sanh về cõi nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được bất thối chuyển nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ~đề. Nếu người muốn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc đều có thể được ba thứ bất thối, tức là Vị bất thối, Niệm bất thối và Hạnh bất thối; A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cũng chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. "Ở cõi nước kia", là ở thế giới Cực Lạc. "Hoặc đã sanh", quá khứ đã phát nguyện, đã sanh về thế giới Cực Lạc; "hoặc đang sanh", hiện tại phát nguyện, hiện tại sanh về thế giới Cực Lạc; "hoặc sẽ sanh", vị lai phát nguyện, cũng nhứt định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. "Cho nên này Xá-lợi-phất", vì lý do ấy, nên này Xá-lợi-phất, "các hàng thiện nam thiện nữ", cho nên tất cả thiện nam thiện nữ, "nếu ai có lòng tin phải nên phát nguyện", giả như có những người tin theo lời nói của ta thì phải nên phát nguyện. Đây là lời quyết định, không nên chần chờ một chút nào. Nhứt định anh phải phát nguyện. Phát nguyện thì có thể sanh về cõi nước kia, sanh về thế giới Cực Lạc.” [H.T Thích Minh Cảnh dịch]

Hai thời công phu, Lược giải Di Đà, H.T Thích Trí Quang giải thích:

Sinh Cực lạc, như đã nói trong phần dẫn nhập, sự ấy có 2 mặt, là sinh quốc độ ấy ở về hướng tây quốc độ này, là sinh quốc độ ấy ngay nơi quốc độ này, và sinh nghĩa là tâm tịnh thì độ tịnh (còn nói vãng sinh là nói cho dễ hiểu). Nên bất cứ ai nhất tâm mà tin lời nói thành thật của Phật (tín), nhất tâmnguyện sinh Cực lạc (nguyện) và nhất tâm mà niệm hiệu Di đà (hạnh), thì ích lợi họ có được thật bất khả tư nghị, ấy là được sinh Cực lạc và, trước đó, được không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Ai tin thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, ngài Huyền tráng dịch thêm vài chữ thôi nhưng rất cần: "ai tin hiểu sâu xa thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, đừng sống phóng dật". Đừng sống phóng dật là tự chế ngựnỗ lực, và nỗ lực liên tục, trong sự niệm Phật. Chính sự bất phóng dật này mới quyết định được hay không được sinh Cực lạc, không thoái chuyển hay thoái chuyển vô thượng bồ đề.

Kinh Đại Bảo Tích:

如是我聞。一時佛在王舍城耆闍崛山中。與 大比丘眾八千人俱。菩薩摩訶薩萬六千人。皆不退轉於阿耨多羅三藐三菩提

“Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với chúng đại tỳ kheo, tám ngàn người câu hội; có một vạn sáu ngàn vị  đại Bồ tát, đều (ở địa vị) Bất thoái chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Kinh Đại niết bàn:

又善男子是大涅槃微妙經典所流布處。當知其地即 是金剛。是中諸人亦如金剛。若有能聽如是 經者。即不退轉於阿耨多羅三藐三菩提

“Lại nữa thiện nam tử, nơi nào có kinh Đại niết bàn vi diệu đây được lư bố, nên biết nơi vùng đất đó chính là kim cương, các người sống trong vùng đất đó cũng là kim cương. Nếu có người nào nghe được kinh như vật liền được bất thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Luận Đại trí độ:

為聞般若波羅蜜故。於是大會百千萬眾 諸天世人一處和集。中有聽者。中有受者。中 有持者。中有誦者。中有書者。中有正觀者。中 有如說行者。當是時中眾生以是因緣故。皆 不墮惡道。不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。 

“Vì nghe được pháp Bát nhã ba la mật nên ở đại hội này, trăn ngàn vạn chúng chư thiênnhân loại đều vân tập một chỗ. Trong đó, (đối với pháp Bát nhã ba la mật) có người nghe, có người thọ trì, có người nắm giữ, có người đọc tụng, có người biên chép, có người chánh quán, có người theo lời dạy mà thực hành. Ngay lúc bấy giờ, chúng sanh trong hội ấy, nhờ nhân duyên này mà đều không đọa ác đạo, không còn thoái chuyển nơi Vô thượng chánh đẳng giác.”

Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Thường Đế:

善男子。汝所 從聞是般若波羅蜜處應生心如佛想。善 男子。汝當知恩應作是念。所從聞是般 若波羅蜜者。即是我善知識。我用聞是法 故。疾得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。 親近諸佛常生有佛國土中。遠離眾難,得具足無難處。

“Chỗ mà người theo đó được nghe Bát nhã ba la mật, người phải xem nơi ấy như đức Phật. Người phải tri ân, phải nghĩ rằng đây tức là thiện tri thức của tôi. Do nghe pháp Bát nhã ba la mật ấy, tôi sẽ chóng được chẳng thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề, được ở gần chư Phật, thường sanh trong nước có Phật, xa rời các chướng nạn, được đầy đủ chỗ không chướng nạn.

A Di Đà Kinh Chú (阿彌陀經註): “Không thoái chuyển nơi Phật đạo.”

A Di Đà Kinh Cú Giải (阿彌陀經句解): “Nghe kinh này, niệm Phật, nơi sự hay lý, định tâm hay tán loạn, cạn hay sâu, hết thảy đều chứng được Bất thoái.”

A Di Đà Kinh Lược Chú (阿彌陀經略註): “Ngài Pháp Tạng nguyện rằng: Người nào nghe danh hiệu tôi mà đối với Bồ đềthoái chuyển thì tôi không thành Chánh giác.”

A Di Đà Kinh Sớ (阿彌陀經疏): Ngài Khuy Cơ dạy, “Nên nói do trì kinh này và nghe danh hiệu chư Phật mà được sự hộ niệm, và do sự hộ niệm ấy mà người thiện nam, thiện nữ nghe kinh này đều được tâm không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng. Luận Thập trụ Bà sa nói: Nếu người nào xưng danh hiệu A Di Đà Phậtnhất tâm, nhất niệm, thì cũng được sự bất thoái chuyển. Hỏi: Vì sao chỉ niệm A Di Đà Phật liền được bất thoái chuyển? Và còn có phương tiện nào khác (để được bất thoái chuyển không)? Đáp: Chẳng phải chỉ xưng niệm, lễ kính, mà còn nên chí tâm đối trước chư Phật mà sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, phát nguyện. Do sự sám hối mà liền có thể chuyển hóa các định nghiệp, giống như viên châu Như Ý, ước nguyện dễ được. Nếu có nơi chốn nguyện sanh về bèn nên sám hối khiến cho tâm không thoái lui.”

A Di Đà Kinh Sớ Sao (阿彌陀經疏鈔), Ngài Châu Hoằng dạy:”Ngày nay, chỉ trì danh hiệu Phật, và nhở sự hộ niệm của Phật, mà đối với tuệ giác bồ đề không có thoái chuyển, chính là nói đi thẳng đến đạo tràng, trọn không rơi lại vào ba cõi, giữa đường dùng ở hóa thành, quyết định thành Phật vậy.”

Bản dịch của H.T Thích Nhất Hạnh:

"Xá Lợi Phất! Thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các Bụt đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm?

"Sở dĩ như thế, là vì những người con trai hoặc con gái nhà lành nào nghe được kinh này và nghe được danh hiệu Bụt A Di Đà, hết lòng hành trìthực tập theo phép niệm Bụt thì những vị ấy sẽ được tất cả các vị Bụt hộ niệm, và tất cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột, không còn bị thối chuyển. Vì vậy cho nên quý vị hãy tin vào lời tôi đang nói, và cũng là lời chư Bụt đang nói.

Lời bàn: Nói “đạt tới quả vị giác ngộ cao tột”, thì tất nhiên không còn thối chuyển, cho nên câu “không còn bị thối chuyển” là dư thừa. Thường các kinh đại thừa hay nói, “trong chúng hội trời người sau khi nghe pháp thoại thì phát tâm bồ đề rộng lớn”, hay “được sự bất thối đối với Vô thượng Chánh đẳng giác”. Về sự bất thối thì ở trên các Tổ có giảng giải. Ở đây, hành giả tịnh độ, nghe kinh này, trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật thì được chư Phật trong mười phương hộ niệm, và nhờ sự hộ niệm ấy mà được sự bất thối, mà đầu tiên là không đọa ác đạo, sau đó khi sanh về Cực Lạc sẽ được địa vị Bất thối chuyển (tức A bệ bạt trí, mà ở đoạn giữa kinh A Di Đà nói đến các bậc thượng thiện nhân).

"Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang, hay sẽ phát nguyện sinh về nước Bụt A Di Đà, thì người ấy ngay trong giờ phát nguyện đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt tại cõi nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sinh, đang sinh, hay sẽ sinh về đó.

Lời bàn: Câu này nói nghiêng về duy tâm Tịnh độ, mà theo mạch văn ở đây không phải như vậy. Đức Phật khẳng quyết với những ai ở trong ba thời gianphát nguyện nguyện sinh về Cực lạc thì: 1. Được sự bất thoái đối với tuệ giác Vô thượng (tức gieo trồng thiện căn bồ đề, mà là Phật quả bồ đề); 2. Được sinh Cực Lạc (xưa có chư vị vãng sinh, nay có chư vị vãng sinh và tương lai, ai tu tịnh độ, phát nguyện thì cũng vãng sinh). Nói nghĩa duy tâm thì ngay nơi tâm tịnh thì Phật độ tịnh. Và còn nghĩa nữa, sự huân tu tịnh độ thì hoa sen nơi ao báu trổ hoa ngày một tốt tươi. Ngay nơi câu văn: “ngay trong giờ phát nguyện đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển”, đã có gì đó trúc trắc, vì nếu phát nguyệnthành tựu được quả vị giác ngộ cao tột (tức thành Phật) thì các vị bồ tát đâu cần trải qua thập địa. Giả thử nói rằng, “ngay trong giờ phát nguyện đã thể nhập chân như, Phật tánh, tỏ ngộ tự tâm v.v…” thì cũng không đúng, vì muốn đạt tới chỗ đó cũng trầy da tróc vảy, vì đó là địa vị kiến đạo; dù là kiến đạo của Thanh văn hay Bồ tát thì trong đời này cũng khó ai có thể một phen phát nguyện mà “thấy đạo”, tức chứng ngộTứ đế. Còn nói “đã có mặt ở nước ấy”, thì sẽ có người hỏi, sau khi có mặt rồi có trở về Ta bà không, làm sao trả lời? Phát nguyện xong rồi, nhưng phiền não tập khí vẫn còn, nên vẫn phải tu tập chuyển hóa thân tâm, chuyển nhiễm thành tịnh, chuyển thức thành trí, bằng giới định tuệ, bằng văn tư tu, bằng câu niệm Phật nhất tâm, thì tâm mới tịnh, mới gọi là “sinh tịnh độ” vậy.

Vía Đức Phật A Di Đà

Quảng Minh kính ghi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 186)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 491)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 484)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 455)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 526)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 324)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 441)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 790)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1119)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1437)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1165)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1090)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2294)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1494)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1775)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2171)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1881)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2591)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4723)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2619)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6302)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3235)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3039)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 3667)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3171)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8054)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2832)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8475)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4389)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8101)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6676)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11170)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22782)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5238)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11719)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11345)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12546)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34556)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32716)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22129)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12486)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11830)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10340)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10816)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11775)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11675)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10897)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10678)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11363)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7177)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6513)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7216)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5723)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6410)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6003)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9359)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5882)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5860)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5617)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
(Xem: 6165)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant