Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Cư - Đôi Điều Suy Nghĩ

19 Tháng Bảy 202318:59(Xem: 1468)
An Cư - Đôi Điều Suy Nghĩ
An Cư - Đôi Điều Suy Nghĩ  

Thích Nguyên Hùng
an cư tại học viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh 2023

cam tho1
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ. Chế độ sinh hoạt tu tập này không phải chỉ có trong Phật giáo.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, các tôn giáo khác đều có an cư ba tháng mùa mưa. Tuy nhiên, khi Tăng-già tổ chức an cưtrở thành một truyền thống thì từ an cư lại mang một ý nghĩa khác. Sự khác biệt đó do chính sinh hoạt thực tiễn của Tăng-già mang đến.

Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết-ma sớ, quyển 4, thì “ở bất cứ nơi đâu mà thân và tâm được an tĩnh thì gọi là an cư”. Theo đây, ý nghĩa an cư không chỉ dừng lại ở thông lệ hễ đến mùa mưa là ở yên một chỗ mà phải làm thế nào để thân và tâm của mình được an tĩnh. Trong chín tháng ròng rã ngoài mùa hạ, các Tỳ-kheo phải tự khất thực để độ nhật và không ngừng bước chân hoằng hóa; khi ba tháng mùa mưa đến, họ cấm túc an cư một chỗ, không cần phải khất thực, vì đã có Phật tử ngoại hộ, dành tất cả thời gian vào sự tu tập.

Kinh tạng khi chép rất nhiều về việc các Tỳ-kheo tu họcdu hóa khắp các nơi, khi mùa mưa đến thì tập trung về một trú xứ nào đó để cùng nhau an cư. Nhưng cũng có trường hợp các Tỳ-kheo hoằng hóa ở những nơi xa xôi hẻo lánh, không có Tăng thân, vị ấy vẫn có thể tiến hành an cư một mình, gọi là tâm niệm an cư. Điều này được Đức Phật cho phépchúng ta có thể đọc được trong Luật tạng. Chính Đức Thế Tôn cũng đã có lần an cư một mình trong rừng.

Theo nhà nghiên cứu Holmes Welch, sau Phật Niết-bàn, truyền thống an cư vẫn được các đệ tử duy trì. Đến thời kỳ Phật giáo phân phái thì chỉ có Thượng tọa bộ là tổ chức an cư đặc sắc hơn hết. Bộ phái này, hễ đến ba tháng mùa mưa, các Tỳ-kheo đều cấm túc an cư trong tự viện của mình. Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, truyền thống an cư không được truyền theo.

Mãi đến đời Diêu Tần, khi các bộ luật như Thập tụng luật, Quảng luật… được phiên dịch, nói rõ các nguyên tắc thọ giới, an cư… thì cách thức an cư mới được bắt đầu thực hiện. Hình thức tổ chức an cư cũng giống như Thượng tọa bộ, tức là trong ba tháng mùa mưa, Tăng chúng cấm túc trong tự viện của mình, nhưng có biến đổi thêm chút ít, là thay vì dành hết thời gian công phu, thiền định, chư Tăng để ra một ít thời gian để học tập Kinh, Luật, Luận (Theo Trung Quốc Phật giáo bách khoa toàn thư).

Việt Nam, truyền thống an cư cũng có được ngót hai ngàn năm. Những năm gần đây, truyền thống này được Giáo hội chú trọng, gầy dựng và phát triển rất khởi sắc. Có nhiều trường hạ tập trung quy tụ hàng trăm Tăng Ni tu học, tạo nên không khí trung hưng và làm sống dậy tinh thần tu học của Tăng-già. Có thể nói, đây là một nỗ lực không nhỏ và ít nhiều đã thành công của Giáo hội trong công tác tổ chức tu học cho Tăng Ni. Nhưng cũng chính từ thực tiễn này đã gây cho chúng ta một vài suy nghĩ, phải chăng người xuất gia chỉ nỗ lực tu học trong ba tháng?

Thật vậy, không khí tổ chức, kêu gọi, thậm chí dùng “biện pháp” để Tăng Ni tập trung an cư khiến cho chúng tacảm giác như phải vào trường hạ mới thực sự tu học. Điều này đã tạo phản cảm an cư đối với một số người. Trong khi các trường hạ chỉ mới thành công về mặt tổ chức và hình thức. Còn về mặt nội dung, hình như chúng ta chưa có một nội dung tu học rõ ràngnhất quán trong các trường hạ. Chương trình tu học của các trường hạ hầu như đều mang tính tự phát, nội dung trùng lặp, có những môn học đã được học ở các trường Phật học, nhất là thiếu hẳn người có kinh nghiệm trao truyền và chia sẻ về tâm linh. Chính điều này đã khiến cho phần lớn những người xuất gia trẻ không cảm thấy thích thú khi tham dự các khóa an cư.

Những người xuất gia trẻ không hăng hái tham dự an cư, không phải vì họ đã thối thất tâm Bồ-đề, không còn tha thiết với đời sống tu học, gìn giữ thanh quy, mà bởi vì họ đã không tìm thấy được sự trao truyền kinh nghiệm tâm linh từ các khóa hạ. Tiếp xúc với những hành giả an cư, nhiều vị bày tỏ nỗi niềm bức xúc đối với chương trình tu học và lòng tự nhủ lòng năm sau không đi an cư tập trung nữa!

So với hình ảnh một ngôi chùa làng, một thầy cùng dăm ba đệ tử, dù không trương băng-rôn “điểm an cư’, “trường hạ” chi hết, nhưng thời khóa tu học vẫn đều đặn: ăn cơm quá đường, kinh hành, tụng kinh, bái sám, tham thiền, và thầy trò truyền dạy cho nhau những kinh nghiệm tu học, những bộ kinh ngắn, mới đẹp và thanh thoát làm sao! Lẽ dĩ nhiên, không được ở chung với Tăng thân, chắc chắn có nhiều thiệt thòi, nhất là không được con mắt Tăng soi sáng. Nhưng với một nỗ lựcquyết tâm cao, những vị ấy vẫn có thể nuôi dưỡng và làm lớn mạnh nguồn mạch tâm linh của chính bản thân mình.

Từ sự bắt gặp những ý nghĩ đó, chúng tôi hiểu được nỗi niềm thao thức của những người xuất gia thế hệ hôm nay. Họ cần có một trung tâm tu học thuần túy, mà ở đó có đầy đủ pháp hành và người hướng dẫn có kinh nghiệm tâm linh. Trên thực tế, hiện nay Giáo hội chưa thực hiện được điều này. Dù rằng vẫn có những trung tâm tu học lớn, nhưng đó chỉ là những trung tâm mang tính cá nhân, chứ chưa phải là một chủ trương của Giáo hội.

Hình như Giáo hội phải chờ đến ba tháng an cư mới đẩy mạnh tinh thần tu học của Tăng Ni. Phải chăng vì đến đó chúng ta có đủ lý do để tập trung được yếu tố con người? Nếu vậy thì không bao giờ chúng ta tập trung được cái ‘tâm’ của họ. Nếu vì một lý do nào đó mà phải tập trung an cư, chứ không do động lực từ nội tâm thúc đẩy, gắn mình vào một trú xứ nhất định để nương tựa và thực nghiệm tâm linh, thì việc an cư đó đã không thành.

Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giá trị an cư tập trung trong bối cảnh hiện nay. Điều chúng tôi muốn nói là phải làm thế nào để những trường hạ đạt được kết quả tu học tốt. Theo chúng tôi, nên chăng phải có một giáo trình tu tập an cư? Phải có một pháp hành cụ thể cho các đối tượng an cư trong từng trú xứ? Mỗi người có một pháp môn hành trì riêng, hoặc Thiền, Tịnh, Mật… thì cũng phải có các mô hình tổ chức an cư tương ứng, phù hợp.

Pháp môn tu tập phải rõ ràngnhất quán đó là điều kiện cần thiết nhất trong một môi trường tu học, nó phải được thống nhất từ nghi thức, nghi lễ, cho đến phương pháp hành trì. Và một yếu tố nữa cũng vô cùng quan trọng, đó là con người tu chứng, hay ít nhất là có kinh nghiệm hành trì và đã đạt được thân tâm an tĩnh. Có những yếu tố này thì trường hạ mới trở thành trung tâm tu học, mới trở thành một mảnh đất gieo trồng thiện pháp, nuôi lớn giới thân huệ mạng.

Kinh điển còn ghi lại cho thấy, dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, sau ba tháng an cư, có rất nhiều Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Để giúp đỡ các Tỳ-kheo có cơ hội giác ngộ, Đức Phật thường xuyên chỉ dẫn kinh nghiệm tu tập; các Tỳ-kheo trưởng lãokinh nghiệm tu chứng cũng thường xuyên trao đổi, chia sẻ với các tân Tỳ-kheo để họ có thể thành tựu pháp lạc trong ba tháng an cư.

Trong khi đó, thực tế hiện nay chư tôn đức giáo phẩm, những bậc trưởng lão không thấy an cư toàn thời gian với Tăng Ni. Mà Tăng Ni, nhất là thế hệ xuất gia trẻ, cần và cần lắm sự gần gũi, chăm sóc của chư tôn đức để thiết lập đạo tình và thừa hưởng mạch nguồn tâm linh từ quý ngài. Đó là điều kiện cần và đủ để hình thành nên cái gọi là “truyền đăng tục diệm”. Vậy nên chăng chư tôn đức cần sắp xếp thời gian, công tác Phật sự để đến với Tăng Ni suốt trong ba tháng hạ? Thiết nghĩ đó cũng là công tác Phật sự vô cùng quan trọng.

Tóm lại, tu tập là cả một quá trình chuyển hóa không ngừng, chứ không bao giờ giới hạn trong “ba tháng an cư, chín tuần tu học”. Nhưng ba tháng an cư sẽ là những dấu ấn đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời tu học của hành giả, nếu nó tạo ra được những bước ngoặt trong quá trình chuyển hóa tâm, đánh dấu những thành tựu pháp lạc trong sự hành trì. Để có được những nét son kỷ niệm ấy, chúng ta cần phải có một môi trường an cư thật sự lý tưởng đúng như phápphù hợp với tâm tư nguyện vọng của hành giả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 95)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 142)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 198)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 202)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 190)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 284)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 311)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 504)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 331)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 343)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 425)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 376)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 359)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 326)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 375)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 380)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 305)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 272)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 326)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 418)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 482)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 484)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 492)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 468)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 476)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 741)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 700)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 986)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 558)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 791)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 608)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 603)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 483)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 593)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 572)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 759)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 540)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 935)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 673)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 670)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1113)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 771)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 653)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1033)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 618)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 740)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 721)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 692)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 717)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant