Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Yếu Tố Chính Tạo Nên Khổ Đau Và Hạnh Phúc Theo Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc

Wednesday, September 11, 202417:46(View: 2477)
Yếu Tố Chính Tạo Nên Khổ Đau Và Hạnh Phúc Theo Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc
Yếu Tố Chính Tạo Nên Khổ Đau Và Hạnh Phúc
 Theo Kinh Nhất Thiết Lậu
Hoặc 

Thích Nữ Hạnh Từ

chu tieu 10


DẪN NHẬP

Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực và sâu sắc đối với đời sống con người, bởi Ngài không dạy gì ngoài sự khổ và phương pháp diệt khổ. Bao lâu con người còn lo lắng, còn ưu tư phiền muộn khổ đau thì lời dạy của Đức Phật sẽ là phương thuốc hiệu nghiệm giúp con người đạt được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau ấy. Trong bài Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta biết đâu là yếu tố chính tạo nên khổ đau và hạnh phúc.

SỰ THẤY VÀ BIẾT TRONG PHẬT GIÁO
Trong bản Kinh Pháp Môn Căn BảnĐức Phật đã chỉ ra rằng tất cả nỗi khổ, niềm đau khiến chúng ta lặn hụp mãi hoài trong biển sanh tử luân hồi đều bắt nguồn từ “tưởng tri” hay “phi như lý tác ý”. Từ sự suy tư không hợp lý, dẫn đến phiền não lậu hoặc sanh khởiLậu hoặc chính là tham, sân, si là gốc rễ của khổ đau. Do tham, sân, si mà con người có ý nghĩ và hành động sai quấy, gây khổ đau cho tự thân và cho những người xung quanh. Như vậy, khổ đau hay hạnh phúc đều xuất phát từ sự tác ý, như lý tác ý sẽ đem đến hạnh phúc, không như lý tác ý sẽ dẫn đến khổ đau. Hàng vô văn phàm phu chính vì không thấy biết thực tướng các pháp nên trôi lăn mãi trong sanh tử luân hồiTrái lạiđa văn Thánh đệ tử vì thấy biết thực tướng, như lý tác ýnhư thật tuệ tri đối với các pháp mà được an vui, chứng đắc đạo quảBài kinh đầu tiên, Đức Phật mới chỉ ra nguyên nhân vì sao chúng ta đau khổ, nhưng chưa chỉ bày phương pháp để đạt được hạnh phúc. Qua bản kinhthứ hai Nhất Thiết Lậu HoặcĐức Phật chỉ bày các phương pháp giúp chúng ta đạt đượchạnh phúcan lạcgiải thoátĐức Phật đã nhấn mạnh vai trò của người thấy và người biết rất quan trọng trong tiến trình tìm cầu hạnh phúc và đoạn diệt khổ đau. “Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỳ kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý” [1].

“Thấy biết” trong Phật giáo không có nghĩa là thấy bằng mắt, Đức Phật thường dùng chữ “thấy biết” cho các nghĩa như quán sátquán tưởng, nhận rõ từ trí tuệ hay như thật tuệ tri. Muốn thấy biết như thậtchúng ta cần như thật quán sát bằng chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi” [2]. Từ cái thấy biết như thậtchúng ta sẽ thoát ra khỏi mọi lầm chấp, nhìn vạn pháp đúng như nó đang là, tất cả do duyên mà sanh thì cũng do duyên mà diệt, không có gì là ta là của ta. Khi thực chứng sự sinh và diệt, xa lìa hai cực đoan chấp cóchấp không. Thấy sự vật, hiện tượng như chúng chỉ là những pháp hữu vi có mặt và biến mất theo lý duyên sinhhoàn toàn trống rỗng, vô ngãvô thường, khổ, luôn biến đổi và luôn bị bức bách hoại diệt, không ai có quyền điều khiển, chỉ huy, ra lệnh. Với sự thấy biết như vậy mọi sự vật, hiện tượng trong tam giới, tức ngũ uẩn, đều hiển lộhiện hữu thuần khiết. Chúng lộ rõ nguyên trạng dưới ánh sáng của Tứ thánh đế.

Chúng ta khổ đau, phiền não cũng do từ cái thấy biết không như thật mà ra. Thấy như thật tất yếu sẽ dẫn tới thấy sinh, thấy diệt, thấy có vị ngọt của ngũ uẩn, thấy tai hại, từ đó thấy phải ly tham. Khác với cái thấy biết của phàm phu, bậc thánh có cái nhìn như thật đối với vạn pháp“Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử nhân định mà có tri kiến như thật, nhân có tri kiến như thật mà có yếm ly, nhân có yếm ly mà được vô dục, nhân vô dục mà được giải thoát, nhân giải thoát mà có giải thoát tri kiến, biết đúng như thật rằng: sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa” [3].

Ý nghĩa chữ “thấy biết” được Đức Phật nói trong Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc không mang ý nghĩa bình thường. Khái niệm “thấy biết” ở đây tương đồng ý nghĩa của từ như thật tuệ triđược Đức Phật thường dùng trong kinh điển. Cái thấy và biết đúng như sự thật, không phải là sự tưởng tượng hay sự ảo tưởng của con người. Từ thấy biết được Đức Phật giải thíchbằng từ “như lý tác ý”. “Này các Tỳ kheo, ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỳ kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy có như lý tác ý và không như lý tác ý” [4]. Nếu chỉ thực hành giữ sự thấy biết suông với ảo tưởng về cái tâm tự nhiêntrong sáng của mình, thì sự thấy biết này ai cũng có, đó chỉ là cái thấy biết ở mức độ “tưởng tri” của cái tâm chưa được tu tập, không phải “tuệ tri”. Thấy biết như vậy chỉ là sự thấy biết về các sự vật, hiện tượng theo khái niệm tục đế, không có thật, của vô minhChúng ta cho vô thường là thường, cho khổ là lạc, cho vô ngã là có ngã. Đó chính là thấy biết với tưởng điên đảo, tâm điên đảokiến điên đảo dẫn đến khổ đau mãi trong biển sanh tử luân hồi.

Như Lai là bậc giác ngộtỉnh thức, thấy biết đúng như thật. Đối với người biết người thấy như thật vạn pháp thì những vị ấy có thể đoạn trừ tất cả các lậu hoặc“Với người biết, với người thấy, này các Tỳ kheo, ta tuyên bố các lậu hoặc được đoạn tận, không phải với người không biết, với người không thấy” [5]. Chúng sanh vì lầm chấp, cho rằng có một cái ta thực thụ, các pháp duyên sanh vô thường lại cho là thường, tấm thân nhơ nhớp được hình thành do duyên lại chấp là hữu ngã. Để rồi từ đó, không biết bao nhiêu phiền não, khổ đau khởi lên cũng vì cái thấy biết sai lạc đó. Phiền não làm cho cái thấy biết Phật bị khuất lấp, không hiện và không mọc lên được, cũng như bùn khuất lấp hoa sen. Nhưng khi thứ bùn đó được vạch ra, hoa tất sẽ mọc lên. Hoa mọc lên từ trong bùn cũng như cái thấy biết Phật mọc lên từ trong tâm phiền não của chúng sanh“Thấy đúng sự thật là thấy biết Phật. Vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã, là thấy biết chúng sanhTrái lại vô thường thấy là vô thườngvô ngã thấy là vô ngã, là thấy biết Phật. Thấy biết Phật là cái thấy biết đúng chân lý, đúng tánh tướng của sự vật. Đó chính là cái thấy biết thoát ra ngoài có, không, thường, đoạn, nhị biên theo thiên kiến của chúng sanh” [6].

Phàm phu có mắt nhưng lại thấy biết theo tình mê, nhìn đảo lộn sự thật, lấy cái giả làm chân. Hơn nữa, thấy biết cái gì cũng luôn luôn dán nhãn hiệu ta vào trong đó, vì vậy bóp méo tất cả sự thậtVí như câu chuyện người mù sờ voi, chỉ vì thấy biết chưa trọn vẹn mà mỗi người đánh giá có sự khác nhau, cũng vì cái thấy không trọn vẹn mà gây ra tranh cãi. Dù mỗi người có thật sự đụng đến con voi, nhưng vì chỉ đụng đến một góc, một cạnh, không thấy được toàn thể con voi mà cứ chấp chặt chỗ nhận biết của mình là đúng hơn hết. Không ngờ cái ta thấy chỉ là một khía cạnh mà thôi. Các vị ngoại đạo hay Bà-la-môn cũng thường rơi vào các tà chấpchấp cóchấp không, dẫn đến cái nhìn sai lạc về sự thật các pháp.
“Họ chấp trước, giành giật,
Trong các luận thuyết này,
Họ tranh luận tranh chấp,
Họ nhìn chỉ một phía” [7].

BẬC THÁNH VỚI CÁI NHÌN TRÍ TUỆ

Có một vị ngoại đạo đã hỏi A-nan có phải khi chết ở đây sẽ sanh về kia, A-nan đã từ chối không trả lời. Vị ngoại đạo cho rằng A-nan không biết. Nhưng sự thật ngài A-nan không chỉ biết ở vị lai mà đã thấy biết tất cả, thấy được nguyên nhân do đâu chúng sanh trôi lăn trong các cõi. “Theo sự thấy biết của tôi, thấy được cảnh giới ấy, thấy hành nghiệp của chúng sanhcho đến thấy biết chúng sanh từ đâu sanh ra, thấy biết nghiệp trói buộc do hành động đã làm, thấy phiền não vây phủ tụ tập đen như mực. Phàm phu ít hiểu biết tương ứng với tri kiến bị trói buộc, tất nhiên trong vị lai phải trôi theo sanh tử mãi mãi. Sự việc là như vậy, có gì là không thấy biết” [8]. Sự thấy biết của một bậc thánh, khác với sự thấy biết của một phàm phu. Hàng ngày, chúng ta cứ lo cho tương lai mà đánh mất đi hiện tại. Mong muốn có một tương lai tốt đẹp nhưng không vun bồi cái nhân hiện tại. Không một ai ban cho chúng ta hạnh phúc hay khổ đau, mà chính chúng ta là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự nghiệp. Bậc thánh có cái nhìn bằng trí tuệ, vì thế các ngài đã ngăn chặn các điều bất thiện ngay lúc mới khởi niệm. Trái lạiphàm phu thiếu trí, tri kiến bị trói buộcphiền não giăng kín không biết đâu tà đâu chánh. Chính vì cái thấy biết mê lầm nên dắt dẫn trôi lăn mãi trong biển sanh tử luân hồi.
“Ngay lúc nói thấy biết
Thấy biết đều là tâm,
Ngay tâm tức thấy biết
Thấy biết nay đây” [9].

Trong quyển Ý Nghĩa Giới Luật đã nhấn mạnh về vai trò của thấy biết. Tác giả cho rằng việc đi đúng con đường giải thoát là bổn phận của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống nhân thế và để đạt đến an lạchạnh phúc sau cùng, tức Niết bàn. Nhưng muốn đi trên con đường ấy, yêu cầu tất yếu là hành giả phải hiểu đúng và thấy đúng nó mới có thể thành tựu những kết quả thiết thực do con người đem lại như lời Thế Tôn đã dạy. Theo Phật giáo vấn đề quan trọng nhất đối với hàng đệ tử Phật là “đến để thấy và biết” chứ không phải “đến để tin”. Bởi vì một niềm tin nếu không được xây dựng trên cái thấy và cái biết đúng pháp thì niềm tin ấy sẽ là niềm tin mù quángtiêu cực, không mang đến sự đoạn tận khổ đau. “Con đường đưa đến sự héo mòn các phiền não là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu” [10]. Đến để mà thấy tức là trở lại với chính mình, đến với thực tại bây giờ và ở đây để thấy rõ hiện pháp đang là, vạn vật đang trôi chảy như một dòng nước, nó biểu hiện như thế nào thì nhận biết như thế đó, trông thấy chỉ có thấy không thêm thắt gì cả. Khi thực tánh pháp được biểu hiện, bạn sẽ thấy ra tánh tướng thể dụng của vạn hữu. Thấy ra mối liên hệ tương giao tất yếu trong cuộc sống, thấy rõ bản thân mình và sự sống này để từ đó không còn đặt để, đòi hỏi hoặc tham vọng sở hữu bất cứ điều gì. Phật tử chúng ta cần nhận thức một cách rõ ràng rằng, chúng ta sẽ không bao giờ loại trừ được cấu uếlậu hoặcphiền não và thanh tịnh ngang qua một niềm tin thuần tuý vào Đức PhậtNiềm tin đó cần được xây dựng trên nền tảng của trí tuệ.

Từ các trích dẫn trên cho chúng ta hiểu rằng, thấy biết như thật có nghĩa là thấy rõ Tứ đế, thấy vô ngã, thấy vô thường, thấy không, thấy pháp Duyên khởi. Tức là, hễ còn thấy có người, có ta, có ai đó là chưa thấy như thật. Theo Thiền tông có nhiều cách diễn tả về thấy biết như là thấy pháp, thấy bản tâm, thấy thực tướng, thấy thực tướng vô tướng, thấy tự tánh, thấy tánh không. Tất cả chúng ta vì vô minh che phủ nên thấy thân tạm bợ, sanh diệtnày thật, tâm vọng tưởng điên đảo phải quấy lăng xăng, chạy mãi khó dừng cho là tâm thật. Cái không thật mà tưởng thật, đó là si mêvô minhvô minh chính là đầu mối của luân hồiĐa văn Thánh đệ tử thấy đúng như thật về thân và tâm, nhận định rõ ràng hai thứ đó hư dốikhông thật, tạo nghiệp sanh tử, nên không ôm ấp, bám víu, không cố giữ. Vị ấy nhìn sự vật như là chính nó, không có sự gán ghép, đặt tên, phân biệt từ nhận thức của mình. “Thánh đệ tử đa văn đã thấy biết như thật đối với tất cả pháp khổ, tập, diệt, vị, hoạn, ly. Thấy ngũ dụcnhư hầm lửa,… cho đến pháp ác bất thiện, tham ưu thế gian, vĩnh viễn không còn che đậytâm nữa, nhờ đã phòng hộ trước và biết trước những hành xứ và trú xứ của phiền nãocho đến các pháp ác bất thiện, tham ưu thế gian, không còn lọt vào tâm vị ấy” [11].

Trong Phật giáo, thấy và biết có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển tâm linh và tu tập. Sự thấy biết giúp chúng ta tập trung vào hiện tạinhận thức những gì đang diễn ra trong tâm trícảm xúc và cơ thể. Điều này giúp chúng ta loại bỏ những suy nghĩ phiền não khổ đau và tăng niềm an lạc hạnh phúc ngay kiếp sống hiện tại. Sự thấy biết đưa ta đến sự nhận thức về chính bản thân mình, nhận ra tâm tríý thức và thân thể là những yếu tố không tách rời. Điều này giúp hiểu rõ về bản chất của thực tại. Sự kết hợp của sự thấy và sự biết đóng một vai tròquan trọng trong việc tiến bộ trên con đường tu tập và đạt được giác ngộ trong Phật giáo“Nương theo pháp Phật mà học, suy nghĩáp dụng pháp Phật trong cuộc sống, từng bước chúng ta sẽ phát huy sự thấy biết của Thanh văn tiến đến sự thấy biết của Bồ tátNhư LaiĐạt được quả vị Như Lai, mọi sự thấy biết hoàn toàn chính xác, không còn sai lầm và dùng sự hiểu biết vô thượng để cứu độ vô số chúng sanh thoát khỏi trầm luân sanh tử” [12].

KẾT LUẬN
Đối với Phật giáo, một người muốn đạt được an lạchạnh phúc và loại bỏ phiền não khổ đau cần phải xác định lòng tin của mình trên cơ sở của cái thấy đúng và biết đúng. Hàng phàm phu do không thấy biết thực tướng các pháp nên dẫn đến khổ đau trôi lăn mãi trong sanh tử luân hồiTrái lại, hàng đa văn Thánh đệ tử bởi vì có cái thấy biết bằng trí tuệ, nhìn vạn phápnhư chúng đang là nên đạt được an lạc giải thoát. Ngài xác quyết rằng chỉ có người thấy biết mới đoạn trừ hoàn toàn các phiền não lậu hoặc. Khi thấy đúng và biết đúng và hành trì đúng thì chân hạnh phúc tự nhiên sẽ hiện hữu, khổ đau sẽ không còn. Ví như, ánh sáng xuất hiệnthì bóng tối tự nhiên mất đi. Như vậy, khổ đau hay hạnh phúc đều phụ thuộc vào sự thấy biết của mỗi chúng ta.
“Thấy Khổ và Khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy Đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận” [13].

Chú thích và tài liệu tham khảo:
* SC. Thích Nữ Hạnh Từ, Học viên Cao học khóa V tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
[1] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Trung Bộ IKinh Tất Cả Lậu Hoặc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 25.
[2] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Trung Bộ IĐại Kinh Dụ Dấu Chân Voi, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.238
[3] Tuệ Sỹ dịch (2008), Kinh Trung A-Hàm, tập 1, Kinh Bất Tư, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.326.
[4] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Trung Bộ IKinh Tất Cả Lậu Hoặc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 25.
[5] Thích Minh Châu dịch (1991), Kinh Tương Ưng, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.631.
[6] Thích Thiện Siêu (1999), Kinh Pháp Hoa giữa các kinh điển Đại Thừa, TP. Hồ Chí Minh, tr.101.
[7] Thích Minh Châu dịch (1999), Kinh Tiểu Bộ, I, Kinh Phật Tự Thuyết, Phẩm Sanh Ra Đã Mù, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.243.
[8] Thích Tịnh Hạnh (2000), Kinh Tạp A-Hàm, III, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, tr.575.
[9] Thích Tịnh Hạnh (2000), Đại Tập, Hội Văn hoá Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, tr.396.
[10] Thích Viên Trí (2019), Ý nghĩa Giới Luật, Nxb. Hồng Đức, tr. 11.
[11] Thích Minh Châu (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Đại Phẩm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.549.
[12] Thích Tịnh Hạnh (2000), Tạp A-Hàm quyển 43, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, tr.1007.
[13] Thích Trí Quảng (2005), Lược giải Kinh Đại Bảo Tích II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.258.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 162)
Mới đọc qua, tựa đề trên của bài viết, chúng tathấy ngay đề tài hơi ngộ ngộ….Nhưng càng đọc – càng thấy rõ thế giới, đang nằm gọn trong lòng chảo lửa mà dầu sôi sùng sụt
(View: 216)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút danh là Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông.
(View: 349)
Đạo đức là hệ thống những quy tắc, các chuẩn mực xã hộiđể mọi người nương theo, điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích
(View: 412)
Trong cuộc sống thế tục, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc qua tiền tài, địa vị, sắc đẹp, danh vọng hay ái ân.
(View: 383)
Cuộc sống đàn ong, bầy kiến nhìn chúng lăng xăng, tưởng chừng chen đạp nhau lộn xộn, thật ra chúng rất có kỷ luật, ngay cả rơi vào nước
(View: 364)
Trong cái nhìn của thế gian, cái chết là điểm kết thúc. Nhưng dưới ánh sáng Phật pháp, cái chết chỉ là một bước chuyển
(View: 489)
Trong vòng luân hồi sinh tử vô tận, ái được xem là sợi dây vô hình trói buộc chúng sanh vào đau khổ.
(View: 473)
Đạo Phật có cả một kho tàng giáo lý đa dạng và thực hành phong phú đáng kinh ngạc để phát triển tình yêu thương và từ bi tâm
(View: 567)
Cụm tháp Bạc sừng sững trên đồi cao lộng gió, dưới chân có khúc quanh của dòng sông Côn.
(View: 627)
Đức Phật có dạy pháp phóng sinh hay không? Trong rất nhiều kinh, Đức Phật đã dạy là hãy yêu thươngvà đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào.
(View: 994)
Hàng ngày tôi có thói quen ngồi tọa thiền và sau đó đi kinh hành. Địa điểm đi kinh hành tuyệt vời và may mắn nhất
(View: 1451)
Xa xa tận chân trời, mãi mãi nhìn theo mây trắng bay. Lá vàng rơi lác đác, cuồng cuộn về đến núi rừng. Vào Thu có nhiều, lá vàng, gió Thu thổi ra biển cả.
(View: 657)
Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các chương trình chánh niệm tại trường học có thể giúp ích, đặc biệt là ở các cộng đồng nghèo, nơi học sinh phải đối mặt với mức độ căng thẳng cao hơn.
(View: 704)
Trong giáo lý của Đức Thế Tôn, nghiệp (kamma) là một trong những pháp vận hành căn bản chi phối sự tái sinhvà đời sống của chúng sanh trong luân hồi.
(View: 544)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 588)
Con Tàu sầm sập lao trong màn đêm đen đặc, thỉnh thoảng vụt qua những thị trấn hay phố xá nhỏ ven đường le lói chút ánh sáng nhạt nhòa.
(View: 693)
Mùa An cư kiết hạ Phật lịch 2569 - Dương lịch 2025 lại trở về, là cơ hội quý báu để hàng hậu học chúng ta ôn lại lời Phật dạy
(View: 586)
Hầu như không có ai nghĩ xa hơn thế, nghĩ xa hơn cái chết. Đây là lý do tại sao chúng ta thiển cận và không nghĩ đến việc
(View: 754)
“Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh” là gì ?
(View: 740)
Thờ Phật không phải là cầu xin ban phúc hay tha tội, vì Ngài không phải thần linh mà là người thầy dạy cách thoát khỏi khổ đau mà chính ngài tìm kiếm, chứng nghiệm.
(View: 693)
Dòng đời xưa nay vẫn thế, từng đời từng đời nối tiếp nhau, thịnh suy bất định, tụ tán vô kỳ.
(View: 516)
Minh trong đạo Phậttuệ giác, thấy biết như thật về vạn pháp. Khi thành đạo, Đức Phật chứng Tam minh(Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh).
(View: 948)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộnhập Niết bàn của Đức Phật,
(View: 983)
Bồ Tát Đạocon đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(View: 1197)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(View: 1289)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(View: 1305)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(View: 1336)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(View: 1047)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(View: 1298)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(View: 1423)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(View: 1305)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(View: 1426)
Phật tánhchủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(View: 1612)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(View: 1548)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(View: 1469)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(View: 1382)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(View: 1174)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(View: 2213)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(View: 1175)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 1123)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(View: 1968)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(View: 1883)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(View: 1625)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(View: 2213)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(View: 2079)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(View: 1295)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(View: 2305)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(View: 1823)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(View: 1250)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM