Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Sáu: Niệm Phật phải dứt trừ phiền não

21 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12394)
Phẩm Thứ Sáu: Niệm Phật phải dứt trừ phiền não

NIỆM PHẬT SÁM PHÁP

Tác giả: HT Thích Thiền Tâm

---o0o---

QUYỂN HẠ

PHẨM THỨ SÁU 

NIỆM PHẬT PHẢI DỨT TRỪ PHIỀN NÃO

 

Ðã là phàm phu thì chắc hẳn còn ở trong vòng phiền não, bị phiền não làm cho mê hoặcsai khiến, cho nên nhiều lúc con người không thể tự chủ được.

Phiền não có nghĩa là khuấy động và thiêu đốt làm cho tâm niệm không yên, ngăn trở bước hành trì nên còn gọi là phiền não chướng. Pháp Thân tuệ mạng của chúng con bị phiền não phá hại, nên còn gọi là phiền não ma.

Có những phật tử tuy ăn chay, bố thí tụng kinh, niệm Phật – nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan tâm đến việc dứt trừ phiền nãovọng duyên, nên dù có tụng kinhniệm Phật, thế mà tâm tư vẫn chưa được thanh tịnh – bởi lẽ phiền vọng tăng lên một phần thì đạo tâm phải thối lui một bước. Tóm lại, người tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm Phật trì chú tụng kinh sám hối, còn phải đặt nặng vấn đề KHAI TÂM. Mà muốn cho tâm sáng suốt để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu, sớm sanh về Tây-Phương , thì phải dứt trừ phiền não .

TRỪ DIỆT THAM LAMSÂN HẬN.

Các phiền não về THAM không ngoài sự đắm nhiễm ngũ dục là: sắc đẹp, tiền của, quyền danh, ăn mặc, ngủ nghỉ. Từ đó phát sanh ra các chi tiết khác là: bỏn sẻn, ganh ghét, gỉa dối, lường gạt... Cách đối trị tổng quát là phải niệm Phật chuyên cần và luôn luôn cầu nguyện oai lực cửa đức A-Di-Ðà giúp ban thêm nhiều sức mạnh để dứt trừ tâm tham nhiễm.

Trong các loại phiền não thì SÂN HẬN là thứ phiền não có tướng trạng tất thô bạo, và phá hoại sự nghiệp hành trì một cách nặng nề nhất. Người xưa đã bảo rằng; nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Có nghĩa là khi khởi một niệm giận hờn tức là đã mở ra muôn ngàn cửa chướng ngại.

Chẳng hạn như lúc đang niệm Phật chợt tưởng đến người ngoài bạc ác, khắc nghiệt, xấu xa, đối đãi với mình nhiều điều không tốt, hoặc nhớ lại việc người thân cận phản phúc gây rối làm khổ mình- liền buồn giận bứt rứt không an. Từ nơi tâm trạng đó, miệng tuy niệm Phật nhưng trong lòng rất phiền muộn, để vọng tưởng dấy lên sôi nổi. Có người bỏ cả chuổi hột không muốn niệm nữa nằm xuống gát tay lên trán suy nghĩ vẫn vơ. Có kẻ lại buồn tức đến quên ăn bỏ ngủ, muốn gặp ngay người đó để hét la ầm ỉ một hồi hoặc tìm cách trả thù cho đã giận. Tâm niệm sân hậnphá hoại người tu đến như thế.

Muốn đối trị giận hờn, phải khởi lòng từ bi. kinh PHÁP HOA dạy rằng : Lấy đại từ bi làm nhà, lấy nhu hoà nhẫn nhục làm áo giáp, lấy ý nghĩa “ tất cả các pháp đều không” làm tòa ngồi.

Phải nghĩ rằng, ta cùng chúng sanh đồng là phàm phu chìm trong biển khổ Sanh Tử, tất cả đều do nghiệp phiền não mà gây nên không biết bao nhiệu tội ác, mà phiền não thì vốn hư huyễn, không thật có. Như một niệm sân hận phát lên, ta phải tự hỏi rằng, trước khi khởi lên thì nó vốn từ đâu mà đến sau khi tàn rụi thì nó lại đi về đâu. Vậy mà trong lúc giận hờn ta tự làm khổ cho ta trước hết, ví chính ta tự nổi lửa phiền não để thiêu đốt tâm can của mình mà rồi cũng không thể cải hoá và làm lợi lạc chi cho người khác cả. Như thế có phải là si mê vô ích chăng?

Lại nên nghĩ rằng: người kia có hành động xấu ác, làm tổn hại cho ta thì thật ra họ cũng chỉ vì mê muội nên mới gây ra cái nhân tố xấu ác, chắc chắn về sau họ sẽ phải gặt hái cái quả báo khổ sở. Vậy thì họ đáng xót thương hơn là đáng giận, bởi vì họ nếu sáng suốt, thông hiểu nguyên lý tội phước, chắc không khi nào họ lại dám làm điều ấy. Ta là người niệm Phật thì phải áp dụng giáo lý của đức Thế Tôn, để tự cởi mở sự ràng buột oan trái ấy, vì mục đích của đời mình là sự an lạc chứ không phải là sống để khổ sở vì kẻ khác một cách vô lối như vậy.

Ðối với hành động tàn hại của họ, ta phải xót thươngtha thứ, nhu hòa nhẫn chịu, rồi xét mọi việc đều hư huyễn, không thật. Nên răn nhắc chính mình bằng giáo huấn: Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức, muốn hành Bồ tát đạo, giữ thân tâm nhẫn nhục.

Từ bi là nước tịnh mát mẽ, rưới lửa phiền não, nhẫn nhục là áo giáp bền chắc ngăn che tất cả mũi tên độc. “Pháp –Không” là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Nếu biết dùng ba điều này để dứt trừ sân hận tức là đã vào nhà Như-Lai, mặc áo Như-Lai, và ngồi toà Như-Lai vậy.

PHẢI ÐOẠN TUYỆT PHIỀN NÃO THỊ PHI

Hạng phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, và còn ranh giới giữa ta và người, nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn và không một ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật chư Bồ tát vì lòng đại bithị hiện giữa cõi trần để độ sanh, cũng phải chịu cảnh thị phi thương ghét.

Những sự thị phi làm cho người niệm Phật, nếu không sáng suốt bình tỉnh, nhiều khi phải xao động mà phát sinh phiền não, gây chướng ngại cho việc hành trì.

Muốn dứt trừ tâm thị phi, cần phải:

Thứ nhất: Phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn nói lỗi người. Là phàm phu, ai cũng thích lời khen, ghét tiếng chê, và ưa bươi móc điều dở của người, không dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp. Cho nên nguyên tắc của người niệm Phậtphải luôn luôn tự phản tỉnh, xét sửa lấy mình, đừng nên nhìn và nói đến lỗi lầm của kẻ khác. Xét sửa lỗi mình thì càng ngày càng sáng- còn nhìn nói lỗi người tất càng gây việc trái oan.

Thứ hai: khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫnniệm Phật nhiều hơn, chứ đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực làm lem, thì ta cứ để yên, nó chỉ dơ một chút đó rồi lần lần phai nhạt- nếu lấy đó lau chùi tất sẽ hoan ố toàn diện. Bởi khi việc khinh báng xảy ra, nếu hiện tại mình không sai quấy, tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay phải chịu quả báo. Giả sử kiếp trước mình không có biệt nghiệp trực tiếp gây nên lỗi, thì cũng do công nghiệp tội ác, mới cùng sanh ra trong chốn ngũ trược nầy.

Thứ ba : người niệm Phật phải giữ vững lập trường, tin chắc nhân quả và đừng xao động vì tiếng hay dở bên ngoài. Kinh PHÁP CÚ dạy: ngọn núi cao đứng vững giữa cơn giông tố, người chân chính an nhiên giữa tiếng thị phi. Tất cả tiếng khen chê bên ngoài không làm cho ta tốt hay xấu, siêu hay đọa- mà tốt xấu siêu đoạ đều do nơi ta. Nếu ta gây nhân tố lành thì dù người có khinh là xấu xa, tội ác- nhưng ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, nếu ta gây nhân tố xấu ác thì tuy người khác quý trọng ngợi khen, nhưng ta vẫn phải chịu đọa lạc.

Ðức Lục-Tổ HUỆ NĂNG dạy rằng: 

Nếu là bậc chân tu

Không thấy lỗi của đời

Nếu như thấy lỗi người

Mình chê- là kém dở

Người quấy, ta dừng quấy

Ta chê, tự có lỗi

Muốn phá tan phiền não

Hãy trừ tâm thị phi

Thương ghét chẳng để lòng

Nằm thẳng đôi chân nghỉ.

 

PHẢI TRỪ DIỆT MỌI CĂN NGUỒN SI MÊ

Người niệm Phật đôi khi đối với sự lý của mọi vấn đề mà chưa hiểu rõ ràng, rồi từ đó dẫn sanh tất cả điều mê hoặc khiến cho tâm niệm không yên ổn. Ðó là lúc nghiệp si nổi lên phái hoại chánh kiến của mình.

Chẳng hạn như trong khi đang hành trì , thoạt nhớ có kẻ nói rằng: phải niệm chừng nào nhất tâm bất loạn mới được vãng sanh, nay xét mình khó thực hành đến trình độ ấy, e uổng công phu bấy lâu nay nỗ lực, rồi sanh ý tưởng phân vân- đó là hiện tướng của nghiệp si.

Thật vậy, si mê là nguồn gốc của tất cả phiền não, THAM và SÂN đềy do SI mà phát khởi, còn MẠN, NGHI và ÁC KIẾN cũng đều do SI mà ra.

Như khi khởi niệm: sự hành đạo siêng nhọc của ta, thì chưa chắc người xuất gia đã bằng được; đó là NGÃ-MẠN phiền não.

Lúc niệm Phật bỗng sanh ra ý nghĩ: Cõi Cực-Lạc trang nghiêm như vậy, còn mình thì nghiệp dày phước mỏng, làm sao mà vãng sanh được? Đó là NGHI phiền não.

Ác Kiến là sự thấy hiểu cố chấp xấu ác, gồm có năm điều : Thân-Kiến, Biên-Kiến, Tà-Kiến, Kiến-Thủ-Kiến và Giới-Thủ-Kiến.

Như đang tu trì, chợt nghĩ rằng : thể chất mình thì ốm yếu, hôm nay lại làm việc nhiều, chắc là mỏi nhọc, vậy nếu niệm Phật lâu hơn nữa, sợ e phải lâm bệnh, đó là THÂN KIẾN.

Hoặc nghĩ rằng: chết rồi thì như đèn tắt, nếu có đời trước sao mình lại không nhớ? Tốt hơn là nên tu tiên để được sống lâu không chết.

Ðây là ÐOẠN KIẾN và THƯỜNG KIẾN trong BIÊN KIẾN.

Hoặc suy tưởng rằng: tại sao có người làm lành lại chết yểu, mà lại chết một cách dữ dằn, còn kẻ làm ác thì lại sống lâu mà chết rất yên ổn tốt đẹp? Ðây là lối chấp TÀ KIẾN không thấu suốt nguyên lý NHÂN QUẢ của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Có kẻ lại nghĩ rằng : trước kia mình tu theo cách luyện điển của ngoại đạo, mới có vài tháng đã thấy sự ích- còn nay niệm Phật đã lâu sao mà không thấy có chuyển biến chi cả? Ðây là KIẾN-THỦ-KIẾN, tức là chấp lấy cái nhận thức sai lạc của mình và không chịu lấy Chánh giáo để soi chiếu sự hành trì, cũng như hướng dẫn đời sống của mình.

Hoặc lại suy nghĩa : bên đạo khác họ đâu kiêng cữ sát sanh, mà vẫn cầu về Thiên Ðường cũng như mình cầu về Cực-Lạc, vậy cần chi phải giữ giới sát? Ðây là GIỚI-THỦ-KIẾN, tức là sự hiểu biết lầm lạc về Giới Pháp.

Tóm lại mà nói, thì hình thức của nghiệp si quả thật quá nhiều, nhưng người quyết tâm niệm Phật cần nhất là phải y theo kinh điển Ðại-Thừa và đặt trọn vẹn lòng tin vào Ðức Phật. Ðối với đạo lý sâu xa, nếu có điều nào mà mình không biết, thì nên tìm hỏi nơi bậc Thiện-Trí-Thức, chứ đừng để cho sự si mê lôi kéo tâm hồn mình, làm mình đánh mất chủ hướng- khi mà pháp môn Niệm Phật là một pháp thâm diệu, khó tin và khó hiểu.

Người niệm Phật nên nương theo BA LƯỢNG sau đây để cũng cố lòng tin.

Thứ nhất : LÝ-TRÍ-LƯỢNG là sự suy lường của trí tuệ. Phải suy nghĩ như thế nầy: tất cả các thế giới đều do tâm tạo- đã có cõi người thuộc phân nửa nghiệp thiện ác, thì chắc chắntam đồ thuộc nhiều nghiệp dữ và còn có các cõi Trời thuộc nhiều nghiệp lành. Và như thế thì phải chắc chắn có cõi Cực-Lạc do nguyện lực thuần thiện của Phật và do công đức lành của chư Bồ tát cùng những bậc thượng-thiện-nhân.

Thứ hai : THÁNH NGÔN LƯỢNG

giá trị lời nói của Phật và Bồ tát trong các kinh luận. Phải biết, đức Thế-Tôn đã dùng tịnh nhân thấy rõ y báochánh báo của cõi Cực-Lạc rồi diển tả cảnh giới ấy trong các kinh điển Tịnh-Ðộ. Các bậc đại Bồ tát như Văn-Thù, Phổ-Hiền đều ngợi khen cõi Cực-Lạc và khuyên chúng sanh nên cầu vãng sanh.

Người niệm Phật chỉ quyết sống theo lời Phật dạy, thì cũng phải hành trì theo lời Phật dạy. Nếu không lấy lời dạy của Phật mà làm mực thước, thì lấy gì để tin?

Thứ ba : HIỆN CHỨNG LƯỢNG

Là lối tìm hiểu do sự thấy biết trực tiếp hay sự chứng nghiệm thực tế để mà phát khởi lòng tin. Trong Tịnh-độ Thánh-Hiền Lục đã chứng minh rất nhiều người đã niệm Phậtvãng sanh. Và ở Việt Nam cũng có nhiều Phật tử niệm Phật rồi được về Cực-Lạc với những bằng chứng cụ thể.

CÁCH GIẢI TRỪ PHIỀN NÃO

Tóm lại, các loại phiền não của tham, sân, si đều biểu hiện dưới nhiều hình thức không thể tả xiết, nhưng vẫn có bốn điều căn bản để đối trị tổng quát:

-DÙNG TÂM ÐỂ ÐỐI TRỊ

Người mê với bậc giác ngộ chỉ có hai điểm sai biệt : tịnh là chư Phật và nhiễm là chúng sanh. Chư Phật do thuận theo tịnh tâm nên giác ngộ và có đủ trí tuệ cùng thần thông. Còn chúng sanh bởi tùy nơi trần nhiễm nên mê hoặc mà bị sống chết luân hồi.

Người niệm Phật với mục đích duy nhấtđi thẳng vào cảng giới Ðịnh-Tuệ để giác ngộ bản tâm, chứng lên Phật quả. Vậy trong khi niệm Phật nếu thấy bất cứ một ý niệm vọng động nào khác nổi lên thì phải diệt trừ ngay lập tứctrở về với tịnh tâm. Ðây là cách dùng Tâm để đối trị.

DÙNG LÝ ÐỂ ÐỐI TRỊ

Nếu khi vọng niệm nổi lên mà dùng tâm ngăn trừ không được thì phải dùng cách quán xét lý bất tịnh phân tích giáo nghĩa KHỔ ÐẾ, nhìn thẳng vào thực tế VÔ THƯỜNG và suy niệm về chủ đề VÔ NGÃ của vạn hữu. Hoặc triển khai sự tác dụng của tứ vô lượng tâm: TỪ, BI, HỶ, XÃ...

DÙNG SỰ ÐỂ ÐỐI TRỊ

Có khi phải dùng hình thức để đối trị mới có hiệu quả, như phải lẩn tránh các duyên có thể gây ra phiền não, hoặc phải chịu khó ngoảnh mặt làm lơ trước những hoàn cảnh có thể đưa mình đến chỗ đáng tiếc, hoàn cảnh tự buộc mình vào một thứ kỷ luật nào đó. Hoặc tự tạo điều kiện riêng để dằn phiền não cho đến khi phiền não phai nhạt hẳn.

DÙNG BÁI SÁM ÐỂ ÐỐI TRỊ

Các việc lễ lạy, sám hối, trì chú tụng kinh, phải giữ song song với việc niệm Phật cho đều đặn, thì có năng lực diệt trừ tội nghiệp, phát sanh phước tuệ. Cho nên, muốn xa lìa phiền não thì không có chi hơn là phải lễ lạy, sám hối thường xuyên. Nếu bền bĩ và chí tâm thì trên đời, không có việc gì mà không thành tựu.

Ðệ tử chúng con kể từ vô thủy cho đến ngày nay, vì vô minh khuất lấp, vì phiền não dấy động, nên đã đánh mất chánh kiến mà xa rời bạn hiền, gần gũi bạn ác, mà chối bỏ ánh sáng trí tuệ, từ bi của Tam-Bảo, mà quay lưng trước Bản Nguyện A-Di-Ðà. Ngày nay, nhờ sự nhiếp thọ của đức Từ-Phụ nhờ sự giáo huấn của đức Bổn-Sư, nhờ sự khai thị tận tình của Thiện-Trí-Thức, cho nên chúng con đã biết rằng: Niệm Phật thì phải đoạn trừ phiền não. Vì vậy, giờ đây với tấm lòng Tri Ân tha thiết và chí thành; đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy yđảnh lễ :

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật

Nam mô A-Di-Ðà Phật, vị đạotiếp dẫn vãng sanh Cực-Lạc 

Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát

Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29868)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22218)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20392)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20038)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21925)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18956)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24697)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23198)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19924)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23126)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22773)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20620)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15826)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20137)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18101)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22902)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20652)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26229)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24646)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29988)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant