Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panha)

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 21279)
Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panha)

MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo)
Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính, ấn bản 2003

MỤC LỤC

Tiểu sử Hòa thượng Giới Nghiêm
Lời nói đầu
Kệ lễ bái Tam bảo
[00.1] I. PHẦN DẪN NHẬP
1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)
2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ
2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
2.3. Thấp thoáng bóng Sư Tử
[01] II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
1. Danh
2. Con số hạ lạp
3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả
4. Thỉnh mời vào Hoàng cung
5. Cứu cánh của Sa môn hạnh
6. Tái sanh - Vô sanh
7. Chú tâm
8. Hành tướng của chú tâmtrí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng
9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y
10. Hành tướng của Tín
11. Hành tướng của Tấn
12. Hành tướng của Niệm
13. Hành tướng của Định
14. Hành tướng của Tuệ
15. Ngũ căn - riêng và chung
16. Tương quan thân trước và sau
17. Tái sanhvô sanh
18. Trí tuệ
19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không?
20. Cảm thọ
[02] 21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?
22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi
23. Danh sắc tương quan liên hệ
24. Thời gian và không còn thời gian
25. Nguyên nhân của thời gian
26. Thời gian tối sơ?
27. Có rồi không! Không rồi có!
28. Pháp hành thì sao?
29. Tự nhiên sanh?
30. Tự ngã trong thân?
31. Nhãn thứctâm thức
32. Hành tướng của Xúc
33. Hành tướng của Thọ
34. Hành tướng của Tướng
35. Hành tướng của Tác Ý
36. Hành tướng của Thức
37. Hành tướng của Tầm
38. Hành tướng của Tứ (hay Sát)
39. Lại hỏi về "Chú Tâm"
40. Những tâm sở đồng sanh
41. Về năm giác quan
42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp
43. Sớm ngăn ngừa điều ác
44. Lửa địa ngục
45. Nước dựa khí
46. Niết bàn
47. Ai sẽ đắc Niết bàn
48. Làm sao biết Niết bàntối thượng lạc
[03] 49. Có Phật không?
50. Phật là tối thượng tôn bảo
51. Phật tối thắng như thế nào?
52. Thấy Phật
53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo
54. Vedagù?
55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp
56. Nghiệp trú ở đâu
57. Biết còn tái sanh?
58. Phật ở đâu?
59. Thương yêu cái thân?
60. Bậc toàn giác biết tất cả
61. Tại sao Phật không giống cha mẹ Ngài
62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri)
63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?
64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược?
65. Tham luyến và dứt tham luyến
66. Trí tuệ ở đâu?
67. Luân hồi
68. Trí nhớ
69. Ai cũng có trí nhớ
70. Có bao nhiêu loại trí nhớ
71. Tương quan phước và tội
72. Diệt khổ chưa đến?
[04] 73. Cõi Phạm Thiên bao xa?
74. Thời gian tái sanh
75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia
76. Vào cửa nào để đầu thai?
77. Nhân sanh giác ngộ
78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn. Điều ác lớn, tội báo nhỏ
79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ. Người ngu làm điều ác tội báo lớn
80. Bay bằng thân
81. Xương dài 100 do tuần
82. Biển
83. Ngưng hơi thở
84. Pháp xuất thế gian
85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu
86, 87. Thức, tuệ và sanh mạng
88. Thì giờ phải lẽ rồi
89. Phật và chư tăng ai phước báu nhiều hơn
[05] SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA
90. Lễ bái, cúng dường xá lợi, kim thân Phật, cây Bồ đề... không có phước
91. Đức Phậttoàn giác không?
92. Đức Thế tôn có tâm Đại bi hay không?
93. Nghi vấn về sự bố thí Ba-La-mật
94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
95. Hoài nghi về sự thụ thai
[06] 96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại
97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?
98. Đức Thế Tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?
99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "tứ thần túc" để duy trì thọ mạng
100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được hoàn hảo?
101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tông làm thinh không trả lời?
102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa?
103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích!
[07] 104. Oai lực của Đức Phật thua Ma vương?
105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu.
106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?
107. Giáo hội của Đức Tôn Sư có bị phân ly, chia rẽ không?
108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội?
109. Đức Thế Tônlãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không?
110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn?
111. Sao Đức Thế Tônlời nói khiếm nhã?
112. Cái cây có tâm lý không?
113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề!
[08] 114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai?
115. Quả đất dường như có tâm thức?
116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường?
117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắt đạo?
118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn?
119. Thế nào gọi là Sa-môn?
120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo?
121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?
122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!
123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?
[09] 125. Đời sống Sa-môn vô tư, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất
126. Tai sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng?
127. Đức Phật muốn che dấu Pháp?
128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối!
129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử
130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của
131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đảu suất, Đức Bồ-tát quán sát thế gian để
132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?
133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?
134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng
135. Sự tà hạnh của người nữ?
[10] 136. Các vị A la hán còn sợ hãi?
137. Đức Phật dạy cắt đức sợ hãi?
138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng?
139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa?
140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn?
141. Tại sao có đắc quả nhanh, chậm khác nhau?
142. Về cư sĩ A-la-hán!
143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ?
144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ tát Jotipàla lại
145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm?
[11] 146. Tại sao có lúc Đức Phật lại xưng mình là Bà-la-môn, có khi xưng mình là
147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần?
148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức
149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ?
150. Giải thêm về "tâm không động"
151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không?
152. Cư sĩ phá giớisa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao?
153. Nước có sanh mạng chăng?
154. Trùng câu 141.
155. Trên thế gian này cái gì không sanh?
156. Bậc A-la-hán còn phạm giới?
[12] 157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh?
158. Trùng câu 157
159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa?
160. Tại sao Đức Thế tôn không cấm chế giới luật một lần?
161. Mặt trời có bệnh chăng?
162. Lại bệnh của mặt trời nữa!
163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con!
164. Chư Phật quá khứtu khổ hạnh không?
[13] 165. Năng lực của thiện và ác nghiệp cái nào mạnh hơn?
166. Hồi hướng phước có hiệu quả không?
167. Hồi hướng "ác" có được không?
168. Tại sao có chiêm bao?
169. Chết đúng thời và chết không đúng thời
170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường?
171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo?
172. Niết bànxen lẫn khổ?
173. Tại sao không diễn tả Niết bàn một cách cụ thể?
174. Làm sao rõ Niết bàn?
175. Niết bàn không ở đâu cả!
[14] 176. Có ai thấy Phật không?
[15] 177. Đầu đà khổ hạnhích lợi gì?
[16] NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ
178. Về con lừa
179. Về con gà
180. Về con sóc
181. Về con cọp cái
182. Về con cọp đực
183. Về con rùa nước
184. Về cái kèn
185. Về cây súng
186. Về con quạ
187. Về con khỉ
188. Về dây bầu leo
189. Về hoa sen
190. Về hạt giống
191. Cây Sàla xanh tốt
192. Về chiếc thuyền
193. Về ghe thuyền dính đá ngầm
194. Về cột buồm
195. Về người cầm lái thuyền
196. Về người làm công
197. Về biển cả
198. Về quả đất
199. Về nước
200. Về lửa
201. Về gió
202. Về núi
203. Về hư không
204. Về mặt trăng
205. Về mặt trời
206. Về trời Đế thích
207. Về chuyển luân Thánh vương
[17] 208. Về con mối
209. Về con mèo
210. Về con chuột
211. Về con bò cạp
212. Về con chồn
213. Về chó rừng
214. Về con nai
215. Về con bò
216. Về con heo
217. Về con voi
218. Về sư tử
219. Về vịt nước
220. Về chim Venàhikà mái
221. Về chim sẻ
222. Về chim cu
223. Về con rít
224. Về con dơi
225.Về con đỉa
226. Về con rắn
227. Về con trăn
228. Về nhện giăng lưới
229. Về hài nhi
230. Về rùa vàng
231. Về rừng
232. Về cây đại thọ
233. Về mưa
234. Về ngọc mani
235. Về người săn bắn
236. Về người câu cá
237. Về thợ bào gỗ
238. Về người thợ gốm
239. Về con quạ
240. Về cái dù
241. Về đám ruộng
242. Thuốc trị độc rắn
243. Về vật thực
244. Về người bắn cung
[18] III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP
Kính cáo
Thi điếu


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29860)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27124)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21742)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22208)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20389)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20032)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21917)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24716)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18954)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24695)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23954)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27746)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26491)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38085)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18795)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18417)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19010)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23124)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23857)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22771)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29551)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20613)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18682)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15823)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18817)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20132)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18096)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22891)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34143)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16899)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39174)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26018)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20075)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18801)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24031)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29081)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22893)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30912)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20993)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26824)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20650)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23306)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19807)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24628)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29967)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20194)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20385)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15124)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15809)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23842)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19817)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant