Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Mục Kiền Liên

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9091)
Tôn giả Mục Kiền Liên

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


Tôn giả Mục Kiền Liên (Maha Moggalyana): 
Vấn Đề Thuyết Pháp.

Trong số đại đệ tử của Phật, tôn giả Mục Kiền Liên nổi danh là đệ nhất thần thông. Sau khi ngài Xá Lợi Phất từ chối không dám đi, Đức Phật liền gọi tôn giả Mục Kiền Liên và bảo rằng:

- Mục Kiền Liên! Ông hảy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ngài Mục Kiền Liên liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông ấy. Trước đây có lần con đi vào thành Tỳ Xá Ly. Trong một thôn xóm nọ, con vì một nhóm cư sĩ nói pháp cho họ nghe. Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

- Thưa ngài Mục Kiền Liên! Vì hàng bạch cư sĩ nói pháp Ngài không nên nói những pháp như vậy. Vả chăng nói pháp phải đúng như pháp mà nói. Bởi vì pháp không có tướng chúng sinh, xa lìa sự cấu nhiễm về chúng sinh. Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu. Pháp không có tướng thọ mệnh, xa lìa sanh tử ưu bi. Pháp không có tướng nhơn, vì thời gian trước và thời gian sau không phải một. Pháp thường vắng lặng vì dứt bặt các tướng. Pháp ly tất cả tướng vì nó không phải đối tượng sở duyên. Pháp không có tên, không có lời để gọi vì ngoài sự nghĩ ngợi nói năng. Pháp không có gì để nói vì nó ly các giác quán. Pháp không hình tướng vì nó như hư không. Pháp không như trò giởn vì nó hoàn toàn rỗng lặng. Pháp không phải là ngã sở vì nó rời ngoài ngã sở. Pháp không thể phân biệt vì nó vượt ngoài sự nhận thức đánh giá. Pháp không có thể so sánh vì nó không ở trong vòng đối đãi. Pháp không lệ thuộc vào nhân vì pháp tồn tại ở duyên. Pháp hòa đồng pháp tánh vì nó dung nạp với pháp tánh. Pháp tùy thuận với pháp “NHƯ” vì nó không chỗ tùy. Pháp trụ nơi thật tế vì pháp bất đồng với bên hữu bên vô, bên đoạn bên thường. Pháp khônggiao động vì nó không tương can với lục trần. Pháp không có đến đi vì pháp vốn là bất trụ. Pháp thuận với không, tùy vô tướng, hợp với vô tác. Pháp rời tốt xấu. Pháp không tăng nhiều, không giảm thiểu. Pháp không có chỗ qui thú, nó vượt qua nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm. Pháp không có cao thấp, pháp thường trú bất động. Pháp xa lìa tất cả sự nghĩ ngợithi thố.

Hằng ngày ngài Mục Kiền Liên vào thành khất thực và sau đó thuyết pháp cho Phật tử tại gia nghe để họ thấu biết thêm về giáo lý Đức Phật. Những gì ngài Mục Kiền Liên nói là dựa theo lời Phật thuyết pháp thế mà cư sĩ Duy Ma cật bảo là không nên nói như vậy. Không lẻ ông Mục Kiền Liên nói sai? Pháp của Phật giáo có nhiều loại: Đó là pháp tánhpháp tướng, pháp liễu nghĩa và pháp bất liễu nghĩa, pháp tiểu thừa và pháp đại thừa. Chẳng hạn như khi nói về tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên…là nói về pháp tướng tức là pháp có sinh có diệt. Còn pháp tánh là nói về chân không, bản thể tuyệt đối, không hình tướng bởi vì nó là pháp ở trong tâm. Mà cái không hình, không sắc thì làm sao diễn tả được nên nó phải lìa văn tự, ly ngôn thuyết và ly tâm duyên mà Bồ-tát gọi pháp tánh nầy là NHƯ.

Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau do đó nếu muốn chúng sinh nghe pháp và thấu hiểu mà thực hành được viên mãn thì phải nói pháp cho đúng với chân lý, hợp với Phật tánh tức là NHƯ. Như có nghĩa là tự nó sao cứ để vậy, đừng để tâm phân biệt so sánh, thêm bớt vì nó đã lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ…cho nên khi nói pháp thì phải nói với tâm vô phân biệt, vô quái ngại tức là nói pháp vì lợi ích cho chúng sinh chớ không phải vì danh văn lợi dưỡng cho mình. Khi nói về pháp tướng thì có bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinhthọ giảpháp tánhBản thể tuyệt đối thì làm gì còn có ta, có người, có chúng sinh hay có thọ giảdĩ nhiên làm gì còn sinh tử luân hồi.

Thưa ngài Mục Kiền Liên! Pháp như thế thì làm sao mà có thể nói được? Luận đến chỗ cứu cánh của vấn đề thuyết pháp thì người nói không nói gì hết, không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không được có một sở đắc nào. Ví như nhà ảo thuật làm ra người ảo, người ảo lại nói chuyện ảo. Phải xác lập ý thức kiên định như thế rồi mới nên thuyết pháp.

Tuy ông Mục Kiền Liên lập lại lời của Phật để thuyết pháp giúp chúng sinh được thức tỉnh nhưng đây chỉ là phương tiện tương đối để đi đến Chân lýthuyết pháp tự nó không phải là Chân lý tuyệt đối. Bởi vì Chân Lý thì không thay đổi, biến thiên theo thời giankhông gian. Lúc nào cũng vậy và ở đâu cũng thế. Pháp mà ông Duy Ma Cật muốn nói ở đây chính là Pháp tánh và đó mới là Chân lý tuyệt đối, là Phật tri kiến, là Bản lai diện mục, là Bản Thể Chân Như…Chính cái pháp tánh nầy không hình, không tướng thì làm sao có thể diễn tả bằng lời nói, ngôn ngữ cho nên những gì mà ông Mục Kiền Liên có thể nói được thì chỉ là pháp tướng mà thôi. Pháp mà có thể nói được thì phải có đối đãi, so sánhso sánh, đối đãi là tướng chớ không phải tánh. Tất cả những kinh điển, giáo lý cũng chỉ là pháp tướng có nghĩa là phương tiện, là ngón tay mà đừng quên cứu cánh vẫn là ánh sáng chân lý, là mặt trăng, là pháp tánh vậy. Cùng ý nghĩa nầy trong kinh Kim Cang có câu:”Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như Lai” có nghĩa là cái gì mà có hình tướng là giả huyễn, là không thật, là sinh diệt; còn nếu thấy được cái Tướng Không của mọi sự vật thì sẽ thấy được Chân lý.

Nếu đứng về phương diện Bản Thể Chân Như thì Chân Lý không thể nào diễn bày được cho nên nói mà không nói, nghe mà không nghe và chứng đắc mà không chứng đắc. Một ngày nọ tôn giả Tu Bồ Đề đang ngồi thiền trong hang núi Linh Thứu, có vị trời Đế Thích đến rãi hoa cúng dường. Tôn giả nói:

- Vì lẽ gì ông đến đây rãi hoa?

- Vì tôn giả nói kinh Bát Nhã hay quá nên con đến cúng dường.

- Từ hồi nào đến giờ tôi chưa từng nói một câu, sao ông lại nói tôi thuyết Bát nhã?

Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nói, không nghe mới là Bát Nhã chân chính.

Lại có một lần nọ Bồ-tát Văn Thù thỉnh Phật một lần chuyển pháp luân nữa thì Đức Phật bảo rằng:

- Trong thời gian bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một chữ nào, sao ông lại thỉnh ta chuyển pháp luân một lần nữa? Hóa ra trước đây ta đã từng chuyển pháp luân rồi sao?

Nói mà không nói mới là chân Bát nhã.

Mặc dù cứu cánhChân Lý, là Bản Thể Chân Như nhưng con người cần phải dùng phương tiệnpháp tướng tức là có người nói và có kẻ nghe thì Chánh pháp mới có thể lưu truyền được. Bởi vì nếu khéo dùng phương tiện thì đạt tới cứu cánh viên mãn. Do đó nói pháp bây giờ cũng như người huyễn thuyết pháp cho người huyễn nghe. Người nói là huyễn mà người nghe cũng là huyễn. Tuy biết là huyễn mà vẫn dùng huyễn làm phương tiện để đi tới Chân Lý. Tuy Bồ-tát biết tất cả mọi pháp thế gian là huyễn, nhưng họ vẫn thuyết, vẫn dùng cái huyễn như là nền móng để dẫn dắt chúng sinh thấy cái chân thật. Toàn bộ giáo lý của Đức Phật là giúp chúng sinh thấy được tà để quay về với chánh, thấy huyễn để tìm về với chân tức là hướng dẫn chúng sinh lìa tướngchứng nhập pháp tánh. Cũng như những làn sóng nhấp nhô của đại dương, sóng biển là Tướng và Thể nước yên tịnh tận dưới lòng đại dương. Do đó muốn thấy được Thể thì con người phải biết Tướng vì Thể và Tướng cũng đều do nước mà ra, bất khả phân ly.

Thêm nữa, thưa ngài Mục Kiền Liên! Người thuyết pháp phải biết căn tánh chúng sinh. Trước một hay nhiều đối tượng phải đọc thấy rõ ràng căn tánh của họ lợi hay độn,

Căn cơ của chúng sinh thì có cao có thấp, sâu cạn khác nhau vì thế căn nhà giác ngộ mới có tám vạn bốn ngàn cánh cửa để vào. Cũng như có ba con thú sang sông. Con sông là Phật pháp không cạn không sâu. Con dê nhỏ thì lội ngập đầu cũng ví như người chưa biết đạo. Con nai lớn hơn thì lội ngập cổ ví như người chỉ biết pháp hữu vi sanh diệt. Còn con voi thì chỉ ngập ống chân ví như người đã thấu hiểu lý Không, Bát nhã. Ngày xưa chính Đức Phật phải đợi đến hai mươi năm mới đem diệu lý Bát nhã mà thuyết cho đệ tử và cũng cần đến hai mươi hai năm mới thuyết xong Chân lý nầy. Khi xuống núi Linh Thứu vào thành Vương Xá thì Đức Phật thuyết cho Phật tử tại gia. Ngài dạy họ đời là khổ não, cần phải tu tâm dưỡng tánh mà không cần lìa bỏ gia đình, quyến thuộc, thực hành Bồ-tát đạo và phát tâm cầu vô thượng Bồ-đề, sống với lòng vị tha vô ngã để tâm được thanh tịnh thì cũng chứng được vô sanh pháp nhẫn tức là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Khi về lại núi Linh Thứu thì Ngài thuyết cho hàng xuất gia để loại bỏ Tham-Sân-Si, ái dụcchứng đắc Niết bàn. Nên nhớ pháp chỉphương tiện, là chiếc bè nên khi đến được bờ bên kia thì phải bỏ bè mà lên bờ giác ngộ. Do đó khi thuyết pháp thì phải biết đối tượng, phải hợp với căn cơ thì chúng sinh mới thấu hiểu những bài pháp thoại và đó là yếu tố không thể thiếu của một vị pháp sư. Chúng sinh có Tri mới có Hành và nếu họ thực hành rốt ráo thì tâm mới khai mở và sau cùng trí tuệ sẽ phát sanh.

Người thuyết pháp phải lấy tâm đại bi mà khen ngợi đại thừa.

Tâm đại bi là biết thương xót chúng sinh cho nên phát tâm đại thừa muốn cứu giúp tất cả chúng sinh thoát ra khỏi biển trầm luân đau khổ để hoàn thành Phật đạo viên mãn chớ không ích kỷ mong cầu giải thoát cho riêng mình. 

Phải nghĩ rằng thuyết pháptruyền bá, duy trì cho ngôi Tam Bảo cửu trụ thế gian.

Thuyết pháp nhằm để báo đáp thâm ân Phật. Phải lập chí như vậy, rồi sau mới thuyết pháp.

Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Vì thế Phật tri ân mà không bao giờ cầu báo đáp. Nhưng người Phật tử có bổn phận phải báo đền ơn đức nầy. Nhưng làm thế nào để báo ơn Phật? Xây chùa to, tạc tượng lớn, in kinh, cúng kiến…chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiết thực. Chỉ có một phương pháp đứng đắnhiệu quả nhất là người Phật tử nghe theo lời Phật dạy, y giáo phụng hànhtinh tấn nổ lực tu hành để khai mở trí tuệđược giải thoát giác ngộ. Tự độ cho mình cũng chưa đủ mà còn phải còn phải độ tha là cứu giúp mọi người cùng đến chỗ giác ngộ thì cũng như cúng dường cho chư Phật rồi vậy. Y pháp bất y nhân trong tứ y pháp của kinh Đại Niết Bàn cũng xác định là sau khi Phật nhập diệt thì phải lấy pháp làm Phật và giới làm thầy. Do đó thuyết pháp là cố để trả ơn Phật vì Phật đã chỉ cho ta con đường khai mở trí tuệ chớ thuyết pháp không phải là phương tiện để khoe mình thông kinh liễu nghĩa.

Ngôi Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng.

Nếu đứng về mặt pháp tướng mà nói thì Phật chính là Đức Thích Ca Mâu Ni. Pháp là những kinh điển ghi lại những lời Phật dạy để giúp chúng sinh viên thành Phật đạo. Và Tăng là những đệ tử xuất gia giữ gìn đầy đủ giới luật, tuân theo Lục Hòađại diện cho Phật để dẫn dắt chúng sinh tu học. Nếu tăng sĩ mà phá giới và không sống theo Lục hòa tức là chia rẽ, chạy theo danh văn lợi dưỡng, lập bè kết đảng thì đâu còn xứng đáng là tăng? Nhiều người ngày nay vẫn còn lầm tưởng rằng có nhiều chùa, có nhiều tăng sĩ là Phật giáo hưng thịnh. Thật ra trong chiều dài lịch sử của Phật giáo đã chứng minh rằng Phật giáo chỉ hưng thịnh khi nào có những vị cao tăng đắc đạo làm gương sáng cho mọi người noi theo mà tu đạo. Phẩm chất tốt lúc nào cũng cao quý hơn số lượng nhiều là vậy. Thêm nữa, lịch sử nhân loại trên mấy ngàn năm đã chứng minh hùng hồn rằng triều đại nầy tan, triều đại khác đến nhưng Chân lý của Đức Phật thì trường tồn bất biến. Do đó nếu con người chạy theo thời thế là chạy theo sinh diệt còn sống với Chân lý là tìm về với giải thoát, an vui và tự tại.

Còn nếu đứng về pháp tánh mà nói thì Phật là Chánh giác, là đấng Giác ngộ và Phật là trí tuệ. Pháp là cái trí để giúp con người thấy được chánh tri chánh kiến. Sau cùng Tăng chính là sự thanh tịnh, không bị ô nhiễm. Vì thế khi nói đừng để ngôi Tam Bảo bị hủy diệt cũng có hai ý nghĩa.

1)Nếu hiểu theo nghĩa cạn thì đừng cho chùa chiền, kinh điểnchư tăng biến mất ở trong thế gian nầy.

2)Nhưng nếu hiểu theo nghĩa sâu thì đừng để cho sự giải thoát giác ngộ, cái trí tuệ để biết chánh tri chánh kiến và sự thanh tịnh không ô nhiễm biến mất trong tâm của chúng ta.

Một khi con người phá được màn vô minh hắc ámquay về sống với tự tánh thanh tịnh để được giải thoát giác ngộ thì đây là một tấm gương sáng cho chúng sinh noi theo và dĩ nhiên ánh đạo vàng sẽ luôn bừng sáng trong tâm khảm của tất cả mọi người. Có được như thế thì ngọn đèn tâm của chúng sinh hòa nhập với ngọn đèn Phật để cùng đem ánh sáng Chân Lý lưu truyền khắp năm châu bốn bể và mãi mãi vô cùng vô tận về sau.

Sau cùng trưởng giả Duy Ma Cật đã khẳng định với tôn giả Mục Kiền Liên rằng có thực hiện đầy đủ những điều ở trên thì mới đúng với Pháp, đúng với Chân lý vì một khi còn có kẻ nói, người nghe là còn kẹt trong pháp tướng sinh diệt mà phải đi thẳng tới pháp tánh thanh tịnh bản nhiên rốt ráo. Đó là không có người nói mà cũng chẳng có người nghe thì đây mới thật là chân thuyết pháp.

Sau khi ông Duy Ma Cật nói thời pháp đó, có tám trăm cư sĩ phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Con không được biện tài như thế, cho nên con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Chủ trương của kinh Duy Ma Cật là nhắm vào hàng Phật tử tại gia để khuyến khích họ phát Bồ-đề tâmđi theo Bồ-tát đạo. Trọng tâm của kinh nầy vẫn là chuyễn tâm thì cảnh sẽ chuyển theo. Do đó chúng sinh tu ở đâu cũng được. Tu nhà, tu chợ, tu trong sở làm, tu trong siêu thị…hay bất cứ nơi nào cũng là đạo tràng thanh tịnh cả. Khi hàng Phật tử tại gia thấy ông Duy Ma Cậtbiện tài vô ngại làm cho hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên không đối đáp được nên có 800 cư sĩ hoan hỷ tu theo ông Duy Ma Cậtphát tâm cầu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26690)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28278)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29443)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33351)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21800)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30692)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31338)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37221)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32348)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27173)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20655)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22273)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24023)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22892)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23252)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30466)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30132)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23149)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22352)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21807)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28266)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19297)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20191)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30963)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41561)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32778)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19144)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34064)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24995)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23718)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25358)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27807)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25046)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23867)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58789)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23253)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20914)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28223)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28952)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19242)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24639)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21463)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23899)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28642)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29477)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17669)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31065)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25375)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18994)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20179)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23979)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19062)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20185)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20082)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24872)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19441)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22612)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61884)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31166)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22139)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant