Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Luận

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 29106)
Trung Luận

LONG THỌ BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN Màdhyamaka-Śàstra
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

blank

MỤC LỤC 

Lời của dịch giả
Tựa tái bản

Tựa Tăng Duệ

Chương 01: Quán nhân duyên

Chương 02: Quán khứ lai

Chương 03: Quán lục tình

Chương 04: Quán ngũ ấm

Chương 05: Quán lục chủng

Chương 06: Quán pháp nhiễm người nhiễm

Chương 07: Quán ba tướng

Chương 08: Quán tác, tác giả

Chương 09: Quán bổn trụ

Chương 10: Quán nhiên, khả nhiên

Chương 11: Quán bổn tế

Chương 12: Quán khổ

Chương 13: Quán hành

Chương 14: Quán hiệp

Chương 15: Quán hữu vô

Chương 16: Quán phược giải

Chương 17: Quán nghiệp

Chương 18: Quán pháp

Chương 19: Quán thời

Chương 20: Quán nhơn quả

Chương 21: Quán thành, họai

Chương 22: Quán Như lai

Chương 23: Quán điên đảo

Chương 24: Quán tứ đế

Chương 25: Quán niết-bàn

Chương 26: Quán thập nhị nhơn duyên

Chương 27: Quán tà kiến

LỜI CỦA DỊCH GIẢ

Phật pháp vốn cao siêu huyền diệu, nếu không có các bậc hiền triết tiếp nối ra đời thì thiết tưởng rằng chúng ta cũng chỉ nhìn Phật pháp bát ngát bao la như trời biển chứ không biết làm thế nào tỏ ngộ và áp dụng vào đời sống tu hành.

Bộ luận này đã mang lại cho chúng tôi một vài tia sáng tỏ ngộ khi thâm tâm còn nặng trĩu Ngã chấpPháp chấp. Để đánh dấu phút giây thức tỉnh mà người đã gợi lên cho chúng tôi, ấy là T.T.V.C. (bậc Giáo thọ Sư của chúng tôi) khiến chúng tôi sáng tỏ vấn đề, diệt được phần nào kiến chấp Ngã và Pháp. Vì lẽ đó, tôi mạo muội dịch Luận này, trong khi kiến thức còn nông cạn; đối với nghĩa lý của nó thì hoằng vĩ bao la!

Bộ luận này có ra được cũng gặp phải nhiều trở ngại khó khăn. "Trở ngại khó khăn," khi dùng từ ngữ này, tôi biết rằng tôi đã đi sai tinh thần Trung quán luận. Tư tưởng Trung quán luận là Zùnyatà (Tánh Không), chỉ con người cùng tất cả hiện tượng sự vật trong vũ trụ, không gian, thời gian, đều không có yếu tính quyết định. Có ra, là do duyên hợp nhiều nhân tố phương tiệnđiều kiện hình thành, như huyễn, như hóa. Kể cả nghiệp lực của con người cũng không thật, mà tại sao tôi lại nói danh từ trên. "Trở ngại khó khăn" là quan niệm về nghiệp lực.

Trước khi nghe bộ Trung Quán Luận, tôi có một vấn đề gọi là lợi tha. Tôi đề đạt lên vị Giáo thọ sư của chúng tôi. Nhưng không được bậc Thầy giải quyết thỏa đáng. Tôi rất buồn, song lúc này Trung quán luận đã đến với tôi kịp thời giải quyết những vấn đề cho chúng tôi làm tôi nhẹ nhàng thanh thản hẳn lên. Lúc học tôi có ý nghĩ rằng tôi sẽ dịch bộ luận này từ Hán văn ra Việt văn hầu phổ biến để được lợi ích. Vừa nghe vừa dịch đến khi nghe hết là tôi dịch xong. Tôi đọc lại bản thảo, nhưng tự thấy chưa vừa ý nên dẹp bỏ. Thế là tôi"nhập thất chặt" hai tháng để dịch lại. Thắm thoát hai tháng trôi qua kỳ hạn nhập thất đã mãn và tôi cũng dịch xong bộ Luận. Đem trình T.T.V.C duyệt lại và bắt đầu tính việc in. Trong lúc đợi chờ cho qua dịp tết để in tập này. Thầy G.Đ. khuyên tôi nên viết đại ý mỗi phẩm. Tôi về đọc lại bản Trung quán luận chữ Hán mỗi phẩm thì nhận thấy Luận này hàm sức quá nhiều ý nghĩa, lại thêm dẫn dụ nhiều chiều hướng, khó mà tóm tắt đại ý mỗi chương. Về phần giải thích Tụng văn đã có Ngài Thanh Mục Phạm Chí.

Tôi dựa vào ý nghĩa của những bài tụng cũng như lúc nghe thâu thập được và có tham khảo phần lược thích bản dịch Trung quán luận của T.T.Q.L. xin lược giải thích đại khái mỗi chương, hầu giúp bớt phần nào khó khăn cho những độc giả cần nghiên cứu Trung quán luận để ứng dụng vào đời sống tu hành theo đúng chánh pháp.

Lần này, tôi hiện cho được bộ Luận để kHỏi phụ lòng chư bậc Tôn túc đã nâng đỡ về phương diện tinh thần cho chúng tôi, đó là Hòa Thượng Viện Trưởng Viện hóa đạo, GHPGVNTN, Sư Trưởng Huệ lâm, Sư Bà Diệu Không và Thầy Tuệ Sỹ, đã góp sức nhiều trong việc phiên dịch; cùng chư Tăng Ni trợ giúp những phương tiện khác và những Phật tử quen biết, trực tiếp hoặc gián tiếp giúp đỡ tài lực cho chúng tôi. Với tinh thần hộ đạo Pháp của toàn thể quý vị, chúng tôi tưởng không nêu ra đây cũng đủ cảm thông.

Ngưỡng mong các bậc Tôn túc chứng minh cho, và xin tri ân Chư Tăng, Chư Ni cùng toàn thể quý Phật tử.

NamLong Thọ Bồ Tát.

Thiền thất Diệu Trạm

Đầu Xuân năm 1974 Thích nữ Chân Hiền

 

TỰA TÁI BẢN

 Từ khi bản dịch này hoàn thành, khoảng vào năm 1983, đến nay tôi không biết đã được xuất bản mấy lần. Nhưng sự tái bản lần này vẫn cần thiết, vì nhu cầu nghiên cứu Phật pháp ở nuớc ta, và nhất là sự phổ biến của Thiền và Mật. Nếu không y trên Tánh Không để nghiên cứutu tập, thì Thiền và Mật dễ dẫn đến những phản tác dụng được gọi là tai biến của Thiền, hay của Mật. 

Trong một dịp gặp Ni sư Chơn Hiền tại chùa Già lam, tôi có Hỏi Ni sư về việc xuất bản bản dịch Trung luận của Ni sư mà tôi có duyên được biết cách đây gần hai mươi năm. Cho đến nay, tôi vẫn chỉ biết qua bản thảo. Nhân có lần lục các thứ tịch cũ tại Thứ viện chùa Già lam, tôi tìm thấy bản in Roneo, đã bị mối mọt gặm khá hỏng. Vì tiếc công trình dịch thuật, một công trình rất khó đối với một tác phẩm được xem là khó hiểu nhất trong số các tác phẩm triết học vĩ đại nhất và có ảnh hưởng lớn nhất của triết học Đông phương trước đây, và Tây phương ngày nay, nên tôi mang đi nhờ Phật tử nhập văn bản vi tính trở lại, và bổ khuyết những chỗ bị mối mọt khoét. Nhân đó, tôi thêm một số ý kiến để hiệu chỉnh cho bản văn tương đối khả dĩ hiểu được. Cái khó trong việc nghiên cứu, và nhất là phiên dịch, đối với Trung luận, là vấn đề ngôn ngữ. Phê bình tính hiện thứcchân thực của nhận thức trong Trung luận thường bắt đầu từ những phê bình cấu trúc ngôn ngữ. Y trên cấu trúc ngôn ngữ đế tiến hành phân tích quá trính hoạt động nhận thức trên phương diện tâm lý học. Rồi từ đó lại tiến lên vận dụng điều mà ngôn ngữ triết học phương Tây gọi là “Biện chứng pháp siêu nghiệm” để phê phán bản chất cũng như tính năng và giới hạn của lý tính hay lý trí. Rồi từ đó, nhìn trở lại các khái niệm cùng với những từ ngữ nội hàm các khái niệm này trong Giáo pháp của Phật. Như thế để có nhận thức khả dĩ nói là chân chính về giáo pháp của Phật, mà như kinh Kim cang nói: “Ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.” Pháp mà Ta nói, như là chiếc bè. Pháp cần phải được xả, huống gì là phi pháp. Nhưng pháp nào cần xả, và xả như thế nào. Đó là vấn đề.

Nhận xét đại khái như vậy để thấy rằng trở ngại lớn nhất và cũng là khởi đầu nhất là cấu trúc ngôn ngữ tiếng Phạn. Trong tình hình nghiên cứu Phật pháp ở nước ta, ngữ pháp tiếng Phạn còn rất khá xa lạ. Ngay trong bài tụng mở đầu mà ta quen gọi là “bài tụng Bát bất” cũng cần có một khái niệm sơ đẳng về ngữ pháp tiếng Phạn để có thể tuơng đối dễ nắm bắt hơn. 

 Tất nhiên, chân lý siêu việt ngôn ngữ. Tổ Huệ Năng, ngay cả chữ Hán còn không biết huống hồ là tiếng Phạn. Nhưng xưa nay ai dám nói là mình hiểu Trung luận hơn Tổ Huệ Năng? 

Vì vậy, trong bản dịch tiếng Việt này, nơi phần cước chú, ngoài những ghi chú nhận xét của Ni sư dịch giả, thỉnh thoảng tôi cũng thêm một số gợi ý, mà phần lớn là dựa nguyên bản Sanskrit hiện có, với hy vọng bản dịch sẽ trở nên dễ hiểu hơn.

Bản dịch Hán có những đặc điểm riêng của nó. Không thể nói bản Hán tuyệt đối trung thành với chính tác giả là Ngài Long Thọ. Do khác biệt về những quy ước cấu trúc giữa hai hệ ngôn ngữ Phạn và Hán, nên nhiều chỗ dịch giả Hán là Ngài La-thập đã phải thực hiện những biến đổi cần thiết. Những biến đổi này đại bộ phận phản ánh tư tưởng của dịch giả mà vấn đề có phản ánh trung thực chính tư tưởng của Ngài Long Thọ hay không, đấy là vấn đề ngoài khả năng phê phán của chúng ta. Vì vậy, điểm căn bản là bản dịch tiếng Việt này hoàn toàn y trên bản Hán của ngài La-thập, coi như không biết đến sự hiện hữu của bản tiếng Phạn. Một vài cước chú đối chiếu nguyên bản tiếng Phạn là cốt làm rõ ý nghĩa trong bản Hán, chứ không có mục đích đi thẳng vào thâm ý của Luận chủ là Ngài Long Thọ.

Trong sở kiến hạn chế của mình, tôi nhận thấy bản dịch của Ni sư Chơn Hiền tương đối sáng, và có thể là bản dịch Việt đầu tiên. Vì vậy, tôi đã mạn phép xin góp thêm một phần công đức nhỏ, gọi là tùy hỷ và tán trợ một công trình rất khó thực hiện đối với một tác phẩm rất khó hiểu này.

Nguyện cầu Phật pháp sáng tỏ thế gian.

Phật lịch 2544, 
Quảng Hương Già-lam
NGUYÊN CHỨNG cẩn chí.

 

TỰA TRUNG LUẬN
TĂNG DUỆ

TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ. Cái Thật mà không được nêu danh thì không thể tỏ ngộ, do đó gá vào Trung để mô tả. Ngôn ngữ mà không được giải thích thì không thể suốt cùng, do đó mượn Luận để hiển bày[1]. Khi cái thật đã được mô tả, ngôn ngữ đã được hiển bày, thì sự thực hành của Bồ tát, và sự quán chiếu nơi đạo tràng bấy giờ được buông lửng[2] một cách rỡ ràng vậy.

Vả, phiền não mê hoặc sanh ra từ kiến chấp điên đảo, cả ba cõi vì thế mà phải nổi chìm; sự chứng ngộ thiên không[3] khởi lên từ trí tuệ yểm ly[4], bậc cảnh giới[5] do đây mà thành lạc nẽo. Vì thế biết rằng, sự giác ngộ tuyệt đối là do ở sự quán chiếu bao la; mà trí tuệ nhỏ nhoi bị buộc ràng bởi tâm hạn hẹp[6]. Quán chiếu mà không bao la, thì không đủ để san bằng hữu và vô, thống nhất đạo và tục. Cái biết mà không suốt cùng, thì chưa thể bước vào Trung đạo, xóa tuyệt nhị biên[7]. Nẽo đạo tục nếu không được san bằng, lối nhị biên chưa được xóa tuyệt, thì đấy là nỗi ưu tư của Bồ tát vậy.

Vì lẽ đó, Đại sỹ Long Thọ phân chiết bằng Trung đạo, khiến cho hạng hiểu lầm ý thú[8] trông theo ngón trỏ đạo Huyền[9] mà một phen chuyển hướng; bao quát bằng tức hóa[10], khiến cho khách xu hướng huyền môn[11], quên hỏi han, trong phút giây thấu triệt[12]. Vời vợi thay[13], thật có thể nói, dọn đường thẳng vào thiên không[14], rợp cửa huyền trong vũ trụ[15]; quạt gió huệ qua cành khô[16], tuôn cam lồ lên cây úa[17] ấy vậy.

Kìa kiến trúc trăm từng được dựng, thì nhà cỏ nhà tranh bên cạnh đáng kể là quê mùa; khi thấy sự hoằng vĩ bao la của luận này, thì biết rõ sự chứng ngộ thiên không càng thấp hèn quá lắm.

May thay Châu quận[18] của phương vực này bỗng đâu lại được Linh thứu dời sang đó trấn giữ; tâm tình biên địa hiểm hóc nhờ thế mà được thấm tràn dư âm của nắng rỡ. Rồi đây về sau, bậc hiền triết mỗi khi đàm đạo mới có thể luận đến lẽ thật vậy.

Nghe nói ở các nước bên Thiên trúc, những người dấn thân vào sự học không ai không thưởng thức luận này, và coi nó là cẩm nang trọng yếu[19]. Những người thấm bút mực để đưa ra giải thích quả không phải là ít. Bản giải thích được công bố ở đây vốn là của vị Phạm chí người Thiên trúc, tên gọi là Tân-già-La (Piígala), đời Tần dịch là Thanh Mục. Ông tuy là người có tin và hiểu chánh pháp sâu xa[20], nhưng văn từ không được trau chuốtchính xác, trong đó lại có nhiều sai lầm, thiếu sót và trùng lập. Pháp sư (La Thập) mới cắt xén để bổ sung, khiến cho lý phù hợp với kinh được thấu suốt. Văn hoặc có thừa hay thiếu, chưa phải là hoàn hảo toàn vẹn vậy.

Bách luận[21] nhắm đối trị ngoại giáo để dẹp bỏ lẽ tà; tác phẩm này nhắm chỉnh lý nội giáo để khai thông sự bế tắc.

Đại trí thích luận[22] thì uyên bác; Thập nhị môn luận[23] thì cô đọng. Nghiệm xét cả bốn tác phẩm này, quả thật như mặt trời soi tận cõi lòng, không cái gì mà không soi suốt rạng ngời.

Tôi thưởng thức vị ngọt ấy đến đổi tay không rời sách, quên luôn cả sự quê vụng của mình, bèn gởi gắm cõi lòng tỏ ngộ vào một bài tựa; đồng thời tóm tắt phẩm một lên đầu mỗi phẩm. Ấy thế nhưng nào dám giải thích, mà chỉ là bày tỏ nỗi vui mừng với những ai cùng chung chí hướng vậy thôi.

Nguyên Chứng
dịch và chú thích.
Quảng hương Già-lam,
Mùa an cư, Pl. 2527- 1983.

[1] Danh 名 và thật 實 là mối quan hệ giữa lý luậnthực tiễn, giữa ngôn ngữthực tại; đây là đề tài quan trọng chung cho các hệ tư tưởng của Trung quốc; nhất là Lão Trang, hệ tư tưởngTăng Duệ chịu ảnh hưởng rất nhiều trước khi biết đến đạo Phật. Trong phần mở đầu của bài tựa này, Tăng Duệ giải quyết những mâu thuẫn tranh luận giữa các hệ tư tưởng Trung quốc về vấn đề Danh – Thật bằng thuyết Nhị đế của Trung luận như được trình bày ở Chương 24 "Quán Tứ Thánh đế."

[2] Huyền giải 懸解 , từ của Trang từ, chỉ trạng thái vượt lên tất cả sống và chết, buồn và vui. Trang tử "Dưỡng Sinh Chủ": "Thích lai phu tử thời dã, thích khứ phu tử thuận dã. An thời nhi xử thuận, ai lạc bất năng nhập dã. Cổ giả vị thị đế chi huyền giải." 適來夫子時也適去夫子顺也安時而處顺哀樂不能入也古者謂是帝之懸解. 

Giải thích của Cát tạng (T42n1824_p0002c02), có hai ý nghĩa: (a) Sự tu nhân của Bồ tát đã thành tựusự quán chiếu tại Đạo tràng đã được hiển lộ, bấy giờ hoàn toàn vượt ngoài những nỗi buồn vui sống chết; giống như nỗi buồn và nỗi vui không len vào được tâm tư. (b) có trói buộc gọi là huyền (treo) không có trói buộc gọi là giải (cởi). Có trói buộc chỉ cho bị trói buộc vào các thiên chấp đoạn và thường; các kiến chấp khi đã vắng bặt được gọi là giải.

[3] Thiên ngộ 偏悟, sự chứng ngộ thiên lệch hay phiến diện, chỉ cho hàng Nhị thừa chứng ngộ sanh không mà không tỏ ngộ được pháp không.

[4] Yểm trí 厭智, trí tuệ do nhàm chán sanh tử với nỗ lực gấp rút để đi vào Niết-bàn vĩnh viễn tịch diệt.

[5] Cạnh giới 耿介, giữ tiết tháo không bị lung lay. Sở từ, "Cửu biện"; "Độc cạnh giới nhị bất tùy hề, nguyện mộ tiên thánh chi dị giáo" 獨耿介而不隨兮願慕先聖之異教. Cát Tạng (T42n1824_p0003a21): Cạnh giới ở đây có nghĩa là chí tiết 志節; giữ chặt khư sở tri và tự cho là đã rốt ráo, không chuyển hướng tiểu tâm về Đại thừa.

[6] Ải tâm 隘心, tâm hạn hẹp như quan ải hiểm yếu. Cát Tạng (T42n1824_p0003b13), dẫn Kinh Thư: "Nhất nhơn thủ ải, vạn phu mạc tiến."書云。一人守隘萬夫莫進.

[7] Nhị tế 二際; Cát Tạng dẫn Niết bàn: "Sanh tử chi thật tế, cập dữ Niết bàn thật tế."生死之實際及與涅槃實際.

[8] Hoặc thú chi đồ 惑趣之徒, Cát Tạng (ibid.): hoặc nghĩa là mê hoặc; thú nghĩa là hướng thú. Đây chỉ hàng Tiểu thừa hiểu sai lầm về ý thú sâu xa của Phật.

[9] Huyền chỉ 玄指, nói theo thí dụ "ngón tay chỉ mặt trăng."

[10] Tức hóa 即化. Cát Tạng dẫn chứng Tăng Triệu: "Đạo viễn hồ tai, xúc sự tức chân. Thánh viễn hồ tai, thể chi tức thần."道遠乎哉。觸事即真。聖遠乎哉。體之即神 Lại dẫn thêm Tựa Thập nhị môn luận: "Ngộ đại giác ư mộng cảnh, tức bách hoá dĩ an quy." 悟大覺於夢境即百化以安歸 Ở đây, như vậy, tức hóa chỉ cho ý nghĩa tất cả các pháp vốn vô sanh.

[11] Huyền ngộ chi tân 玄悟之賓. Từ ngữ này thường chỉ cho các nhà Huyền học Trung quốc chủ yếu là Lão Trang. Ở đây, mượn nó để bao gồm các nhà siêu hình học Ấn độ.

[12] Triêu triệt 朝徹, nghĩa đen, thấu triệt chỉ nội trong một buổi mai; ở đây chỉ sự đốn ngộ. Từ ngữ này lấy từ Trang tử, thiên Đại tông sư: "Dĩ sanh ngoại hỷ nhi hậu năng triêu triệt. Triêu triệt nhi hậu năng kiến độc". 以生外矣而後能朝徹. 朝徹而後能見獨. Cát Tạng dẫn Quách Tượng để giải thích: "Khiển sanh tử, vong nội ngoại, hoát nhiên vô trệ, kiến cơ nhi tác, cố vân triêu triệt dã."遺死生亡內外豁然無滯見機而作。故云朝徹也. Sau đó lại giải thích thêm: "Bất sùng triêu nhi triệt lý" 不崇朝而徹理, chẳng đầy một buổi mai mà đã thấu triệt lý.

[13] Đảng đảng 蕩蕩, Cát Tạng dẫn KinhThư: "Vương đạo đảng đảng, vô thiên vô đảng."王道蕩蕩無偏無儻.

[14] Xung giai 沖階, Xung tức xung hư; Lão tử: "Đạo xung nhi dụng chi" 道沖而用之. Giai chỉ giai đoạn, ở đây chỉ Bồ tát địa. Bồ tát địa được thành tựu do quán không, do đó gọi là xung giai.

[15] Huyền môn 玄門, mượn từ của Lão Tử: "Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn."玄之又玄。眾妙之門.

[16] Trần mai 陳枚, cành cây trơ trụi không lá. Ở đây chỉ hàng phàm phu chưa có một chút Thánh trí.

[17] Khô tụy 枯椊, cây úa, chỉ Nhị thừa với trí tuệ yểm ly sanh tử, thủ chứng tịch diệt.

[18] Xích huyện 赤縣, thường nói là "Thần châu xích huyện" 神洲赤縣 chỉ toàn bộ lãnh thổ Trung quốc.

[19] Hầu khâm 喉衿; Cát Tạng, đây chỉ cho tông chỉ trọng yếu: hầu (cổ họng) chỉ sự trọng yếu bên trong; khâm (vạt áo)… chỉ sự trọng yếu bên ngoài.

[20] Thâm pháp 深法; chỉ cho pháp của Đại thừa.

[21] Bách luận 深法, Đề-bà Bồ tát (Àrya-Deva) tạo, Bà-tẩu Khai sỹ (Vasu[bandhu?]-Bodhisattva) giải thích’ Hán dịch, Cưu-ma-la-thập; Đại 30, No 1596.

[22] Chỉ Đại trí độ luận, Long Thọ Bồ tát tạo, Cưu-ma-la-thập dịch; Đại 25, No 1509.

[23] Thập nhị môn luận 十二門論, Long Thọ Bồ tát tạo; Cưu-ma-la-thập dịch; Đại 30 No 1568.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21746)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22217)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20390)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20036)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21923)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24718)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18955)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24696)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27747)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38086)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23125)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23860)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20616)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15825)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18100)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22896)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39180)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26021)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18808)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29084)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30915)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19808)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24633)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29975)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20388)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15129)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23844)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19820)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant