Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Truyền Thọ Và Điều Kiện Của Bồ Tát Giới

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8756)
Chương 4: Truyền Thọ Và Điều Kiện Của Bồ Tát Giới

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu
Chương 4: Truyền Thọ Và Điều Kiện Của Bồ Tát Giới

I. KHỞI NGUYÊN CỦA GIỚI PHÁP BỒ TÁT

Kinh Phạm Võng là nhân Phật vì Diệu Hải Vương và một ngàn người Vương tử thọ giới pháp Bồ Tát mà ra. Đây là pháp thọ giới Bồ Tát trước nhất. Chúng tanhân giangiới bổn này là do Bồ Tát Xá Na, sau khi tu hành giới này rồi thành Phật ở trong thế giới Liên Hoa Đài Tạng; vì muốn lợi lạc tất cả chúng sanh nên chính mình đem giới bổn tụng ra truyền thọ cho Hóa thân Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca xuất hiện ở địa cầu này là một trong thiên bá ức Hóa thân Phật của Xá Na, do Hóa thân Phật tùy theo cơ nghi chúng sinhthế giới này phương tiện tụng ra.

Tại Ấn Độ, Bồ tát bắt đầu thọ giới từ lúc nào và cách thọ như thế nào, không làm sao tra cứu được! Theo truyền thuyết, Đức Thích Ca truyền cho Ngài Di Lặc, Ngài Di Lặc truyền xuống cho hơn 20 vị Bồ tát lần lượt truyền nhau, rồi do pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc. Pháp truyền thọ Bồ tát giớiTrung Quốc gồm có hai dòng chính:

Dòng thứ nhất là Phạm Võng Bồ Tát Giới của Ngài Cưu Ma La Thập, song chỉ tụng ra hai quyền (?), đương thời hơn 800 người như Sa môn Huệ Dung, Đạo Tường v.v… thỉnh pháp sư La Thập truyền thọ Bồ tát giới. Kinh này là Kinh sau rốt trong số các Kinh luật do Ngài La Thập dịch. Ngài tụng kinh này ra, Đạo Dung v.v… bút thọ, không giống như sự phiên dịch các kinh luận khác của Ngài là: ”Ngài tay cầm quyển chữ Phạn, miệng dịch kinh văn”.Chính vì không có bổn chữ Phạn mà chỉ do Ngài La Thập tụng, để tự bút thọ, nên khiến cho người đời nghi là kinh ngụy tạo. Kinh này sau khi tụng ra chưa kịp tu đính .nhuận sắc và hoằng dương,thì Ngài La Thập qua đời.Toàn bộ nghi thức truyền thọ Bồ Tát giới đương thời đã sớm thất lạc, cho nên cũng rất khó khảo cứu tân tường.

- Về Đại Bổn của Kinh Phạm Võng chưa được truyền đến Trung Quốc,trải qua nhiều đời có tương truyền một sự tích.Theo truyền thuyết,lúc Ngài Tam Tạng Chân Đế từ Ấn Độ sang Trung Quốcmang theo bổn Phạn văn của một bộ Đại Bổn Phạm Võng, nhưng thuyền đi trên biển Nam Hải chở nặng quá muốn chìm, Ngài ném bớt đồ trên thuyền xuống mà thuyền vẫn còn muốn chìm, sau cùng Ngài phải ném bộ Phạm Võng Bồ Tát Luật Bổn thuyền mới nổi lên và tiếp tục hành trình. Nhân đây Ngài than: “Đất Hán không có duyên với Bồ Tát giới luật, thật đáng buồn!”. Đây cũng là một vấn đề của Phạm Võng Giới Bổn, thực hư như thế nào không dược biết!

- N hưng pháp truyền thọ của Phạm Võng Bồ Tát giới dường như một vị truyền cho một vị, vì thế chỉ nói Đức Thích Ca truyền A Dật Đa (Di Lặc), rồi truyền xuống hơn 20 vị Bồ tát lần lượt truyền nhau, rồi do Pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc. Điều này so với việc 800 người như Huệ Dung, Đạo Tường v.v… đồng thời hướng về Pháp sư La Thập cầu thọ Bồ Tát Giới dường như là bất đồng. Nhưng cũng không thể đoán định. Nói là A Dật Đa truyền lại hơn 20 vị Bồ Tát rồi do Pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc, cũng có thể là do tương truyền hơn 20 đời.

Dòng thứ hai là Bồ Tát Giới Bổn kinh của Tam Tạng Đàm Vô Sấm truyền dịch, đây cũng rút ra từ bộ Du già. Nhân vì nội dung của Bồ Tát Giới Bổn kinh này, như Đại sư Pháp Tạng nói: “Nay riêng lưu hành Địa Trì Giới Bổn, ở phần đầu có đặt bài kệ quy mạng”.

 Ở đây cũng có một sự tích, trong Bồ Tát Giới Sớ của Đại sư Pháp Tạng có thuật như vầy: “Lúc Tam Tạng Đàm Vô Sấm ở Tây Lương Châu, có sa môn Pháp Tấn v.v… đến cầu Đàm Vô Sấm truyền thọ Bồ Tát giới và thỉnh phiên dịch Giới Bổn…, Ngài nói: “Người nước này (Trung Quốc) tánh nhiều giảo hoạt, lại không tiết tháo, đâu có đủ sức làm pháp khí của đạo Bồ Tát”, bèn không truyền giới. Pháp Tấn v.v… cầu xin mãi không được nên ở trước tượng Phật lập thệ, khổ nhọc cầu giới, bảy ngày vừa mãn, mong thấy Đức Di Lặc đích thân truyền giớigiới bổn, Pháp Tấn đều tụng được ,sau khi thức dậy liền đến gặp Đàm Vô Sấm. Thấy tướng của Pháp Tấn lạ, Đàm Vô Sấm khen: “Đất Hán cũng có người”, rồi dịch Giới Bổn một quyển cùng với Giới Bổn của Pháp Tấn tụng trong mộng,văn nghĩa đồng nhau”.

Nhưng trong truyện Đàm Vô Sấm của Lương Cao Tăng truyện quyển 2 lại thuật hơi khác, nay sao lục lại như sau để cùng tham khảo: “Ban đầu Sấm ở Cô Tàng, có Sa môn Trương Dịch, Đạo Tấn muốn thọ Bồ tát giới. Sấm nói: “Hãy sám hối!”. Tấn chí thành sám hối 7 ngày 7 đêm,ngày thứ 8 đến Sấm cầu thọ giới, Sấm bèn thình lình nổi giận,Tấn bèn suy nghĩ: “ Đó là nghiệp chướng của mình chưa tiêu”. Tấn gắng sức 3 năm tu chuyên tu thiền định, mộng thấy Đức Phật Thích Ca và các Đại sĩ truyền Bồ Tát giới cho mình,đêm ấy cùng với hơn 10 người cảm mộng như Tấn thấy. Tấn đến chỗ Sấm để nói, còn cách nhau mười bước, Sấm trông thấy, kinh ngạc, đứng dậy nói: “Lành thay, Lành thay! Đã cảm giới rồi, ta sẽ làm chứng cho ông”. Rồi Ngài ở trước tượng Phật nói giới tướng cho Tấn nghe:

Lương Cao Tăng Truyện cùng với Đại sư Pháp Tạng thuật có sai khác, nhưng có một sự thật rõ ràngĐàm Vô Sấm làm chứng sư cho Sa môn đất Hán thọ giới Bồ tát.

Dòng pháp của Đàm Vô Sấm về sau lưu hànhTrung Quốc rất rộng.Vì thế, Lương Cao Tăng Truyện quyển 2 nói tiếp: “Lúc ấy, Sa môn Đạo Lãng nổi tiếng ở Quan Tây, ngay đêm Tấn cảm giới, Lãng cũng chung mộng, nhưng tự ty giới lập nên cầu làm pháp đệ.Thuở đó hơn 1000 người từ Pháp Tấn thọ giới.Truyền thọ pháp này cho đến ngày nay đều bắt đầu từ Đàm Vô Sám:.

Nhân nay, trong Bồ tát Giới Sớ của đại sư Trí Giả nêu ra pháp thọ giớiPhạm Võng, Địa Trì, Cao Xương, Anh Lạc, Tân Soạn, Chế Chỉ. Trong 6 bổn pháp thọ giới này có 2 bổn quan hệ với Tam Tạng Đàm Vô Sấm, một là Địa Trì Bổn Thọ Giới Pháp, hai là Cao Xương Bổn Thọ Giới Pháp. Địa Trì Bổn là do Đàm Vô Sấm dịch, Cao Xương Bổn là do Ngài Tăng Tuân người Cao Xương của phái Đạo Tấn làm ra. Nam triều, cuối niên hiệu Nguyên Gia đời Tống Văn Đế có Pháp sư Huyền Sướng tuyên pháp truyền thọ Bồ tát giới đại khái tương tự với Cao Xương Bổn, gọi là Sướng Pháp Sư Bổn.Do đó đủ thấy, dòng Bồ Tát Giới do Ngài Tam Tạng Đàm Vô Sấm truyền ở Trung Quốc có lực lượng rất lớn mạnh.

Nói đến Kinh Địa Trì của Ngài Đàm Vô Sấm dịch khiến chúng ta tìm đến vấn đề lai lịch của Kinh Địa Trì và giới pháp của kinh này. Theo Giới Sớ của Đại sư Trí Giả thuật như sau: “Tương truyền Kinh Địa Trì là do Ngài Di Lặc thuyết,nguyên bổn là Phật Đăng Minh thuyết, Bồ Tát Liên Hoa Tạng thọ trì lần lượt thuyết hóa hơn 30 vị Bồ Tát, sau có Bồ Tát Y Ba Lặc ứng tích truyền hóa sang cõi này, nhưng Kinh Địa Trì do Ngài Đàm Vô Sấm dịch, nên nghi Ngài tức là Y Ba Lặc, trong phẩm thứ tư của Kinh Địa trì này có nói về thọ giới”.

Điều này cùng với đoạn trước nói Du Già Giới Bổn là do Bồ Tát Di Lặc biên tập những điều giới Phật nói tản mác trong kinh mà thành, dường như có thêm bớt. Nhưng Du Già và Địa Trì đồng xuất phát từ một nguồn, nên vấn đề Đàm Vô Sấm là vị Cao tăng đầu tiên tại Trung Quốc truyền thọ một hệ Bồ tát giới pháp của Địa Trì, và Bồ tát giới của hệ Đàm Vô Sấm tại Trung Quốc hình thành lực lượng rất lớn mạnh cũng là một sự thật, không cần phải bàn cãi.

Tóm lại Phạm Võng Bồ tát giới của Ngài La Thập truyền và Địa Trì Bồ tát giới do Ngài Đàm Vô Sấm truyền, chẳng những là hai dòng lớn của Trung Quốc mà ở tại Ấn Độ cũng là hai dòng lớn. Phạm Võng là từ Ngài Di Lặc truyền xuống hai mươi vị Bồ tát và đến Trung Quốc, Địa Trì là từ Bồ tát Liên Hoa Tạng và đến Trung Quốc. Đây không phải chứng minh ngay từ đầu là hai dòng lớn ư? Nhưng đến đời sauTrung Quốc pháp thọ giới của Bồ tát giới lại do ba hệ: Anh Lạc, Phạm Võng, Du Già hội quy tổng hợp thành một pháp thọ giới toàn bích, như cuối đời nhà Minh có “Bồ tát Giới Truyền Giới Chánh Phạm” do luật sư Độc Thể Kiến Nguyệt biên tập, là một bộ sách góp nhặt từ các bộ sách khác mà thành.

II. ĐIỀU KIỆN CẦU THỌ BỒ TÁT GIỚI

Bồ tát giới có sự bất đồng của đốn lập và tiệm thứ, lại có sự bất đồng của tại giaxuất gia, nên đối với điều kiện cầu thọ Bồ tát giới cũng đều riêng có sự bất đồng của khoan dungnghiêm khắc. Nhưng cần phải có đủ điều kiện chủ yếu đó là:

1. Phải có cái thiện của sự cảm giới.

2. Phải không có cái ác của chướng giới.

Điều kiện chủ yếu nhất: “Phải có cái thiện của sự cảm giới”.

Cái thiện của sự cảm giới phân làm hai thứ là Bồ tát chủng tánh và Phát Bồ đề nguyện.

1. Bồ tát chủng tánh: Chỉ cho căn tánh đại thừa, như Kinh Địa Trì nói: “Trụ vô chủng tánh Bổ đặc già la (sát thủ thú-hữu tình chúng sanh), vì không chủng tánh tuy có phát tâmgia hạnh nhưng nhất định không thể viên mãn Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đó là nói: người không có căn tánh Đại thừa tuy có phát tâm cầu thọ Bồ tát giới nhưng không thể thực hành đúng như thật đạo Bồ tát. Bỏ mình vì người, quên mình mà lợi người, là tinh thần Bồ tát của căn tánh Bồ tát, nếu như khôngtinh thần này thì không làm sao đến mục đích thành Phật.

2.  Phát Bồ đề nguyện, hoặc gọi là phát Bồ đề tâm.

Như ngày nay ở trong cửa Phật, bất luận bảo người làm việc gì, đều phải nói: “Xin ông phát tâm”. Đây tuy không phải kể là sai, nhưng lại đem hai chữ phát tâm lạm dụng quá độ, lại dùng hai chữ “ phát tâm” không phân biệt thiện ác, nguyện làm thiện cố nhiên là phát tâm, muốn tạo ác cũng kể là phát tâm. Kỳ thật, bản ý của phát Bồ đề nguyện là chỉ cho ý chí nỗ lực tinh tấn làm thiện, bỏ ác. Nếu có căn tánh Đại thừa này mà không có chí nguyện kiên cường để thành tựu nó cho được viên mãn, thì dù có căn tánh Đại thừa thì cũng là vô dụng. Giống như có một khúc gỗ tốt, có thể làm thành đồ dùng quý giá, nhưng nếu như không gia công chế tác thì khúc gỗ tốt cũng chỉ là khúc gỗ mà thôi. Vì thế trong Kinh Địa Trì nói: “Nếu không phát tâm, không tu gia hạnh, tuy có kham nhậm nhưng không chóng chứng Vô thượng Bồ đề”.

Căn cứ vào Bồ tát Giới Bổn Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch nói, nội dung cái thiện của sự cảm giới còn có một quy định là phải đầy đủ ba duyên mới thành, tức là: “Thắng chủng tánh, Thắng hạnh nguyện và Thắng hạnh tâm. Thắng chủng tánh đồng với Bồ tát chủng tánh. Thắng hạnh nguyện đồng với phát Bồ đề nguyện. Thắng hạnh tâm gồm có 10 thứ yêu cầu:

1. Sinh thâm tâm đối với Vô thượng Bồ đề.

2. Suốt đời lìa ác tri thức, gần thiện tri thức.

3. Suốt đời hối quá, tùy hỷ khuyến thỉnh (Phật pháp), hồi hướng (chúng sinh) tăng trưởng Phật đạo.

4. Suốt đời đem hết năng lực cúng dường Tam bảo.

5. Suốt đời đọc tụng biên chép kinh điển Phương Đẳng vì người giải nói.

6. Tùy sức cứu hộ cho đến một niệm sinh lòng xót thương đối với người cô độc, nghèo khổ, hoặc phạm giới luật.

7. Suốt đời bỏ sự biếng nhác, phát khởi tinh tấn siêng cầu Phật đạo.

8. Lúc ở trong trần lao ngũ dục sinh ra phiền não hay tìm cách chế phục.

9. Nếu lúc đối với Vô thường Bồ đề sinh tâm lui sụt, sinh tâm tham đắm pháp Tiểu thừa, phải tìm cách diệt trừ.

10. Xả bỏ tất cả sỡ hữu, không tiếc thân mạng.

Ba duyên: Thắng tánh, Thắng nguyện, Thắng tâm, phối hợp với kham nhậm, gia hạnh, đại Bồ đề, tức gọi là Bồ tát tam trì. Nay đem nội dung cái thiện của cảm giới liệt vào biểu đồ như sau:

 blank

Thông thường lúc cầu giới, vị pháp sư chỉ hỏi hai câu: “Ông là Bồ tát chăng? Ông đã phát Bồ đề tâm chưa?”. Đây cũng là thủ tục phải trải qua để hỏi về Bồ tát chủng tánh và phát Bồ đề nguyện, còn 10 thứ yêu cầu của Thắng hạnh tâm thì rất ít hỏi đến. Nhưng lý ra người cầu thọ Bồ tát giới phải tự thệ đầy đủ 10 thứ yêu cầu của Thắng hạnh tâm này.

Chính vì trước khi thọ giới phải có cái thiện của cảm giới, mà thật ra chúng sanh từng học Phật thì không thể biết cái gì gọi là cái thiện của cảm giới. Nhưng theo Phạm VõngAnh Lạc nói: “Chúng sinh nào hiểu được lời của Pháp sư đều thọ đắc giới”. Vì thế điều giới khinh thứ 45 phải nói: “Nếu Phật tử thường khởi tâm đại từ bi, hoặc vào tất cả thành ấp, nhà cửa, thấy tất cả chúng sanh, phải tâm nghĩ, miệng nói: “Các ngươi là súc sanh phát Bồ đề tâm”. Bồ tát vào tát cả chỗ núi rừng, sông ngòi, vườn rừng đều khiến cho tất cả chúng sinh phát Bồ đề tâm”. Đây là công đức giáo hóa khiến cho tất cả chúng sinh biết cái thiện của cảm giới. Kinh Anh Lạc quyển hạ cũng nói: “Nếu có người muốn đến thọ giới Bồ tát, Pháp sư trước tiên vì họ mà giảng giải, đọc tụng, khiến cho người ấy tâm khai ý giải, sinh lòng ưa thích, sau đó mới truyền thọ”.

Căn cứ vào đó, trước khi truyền giới Bồ tát, Pháp sư giảng giải Bồ tát giới. Bằng không cái thiện của cảm giới chưa biết rõ, chưa biết đầy đủ, làm sao mà đắc giới? Pháp sư truyền giới ngày nay chỉ mê tín tấn hương (đốt sẹo trên thân thể) cho đó là cái thiện của cảm giới, thật bất hạnh thay!

“Cái thiện của cảm giới” như nhuộm vải, trước hết phải có tính chất có thể nhuộm (căn tánh) và cái yêu cầu cần phải nhuộm (phát tâm) mới có thể đem màu sắc nhuộm lên vải được.

Điều kiện chủ yếu thứ hai: “Phải không có cái ác của chướng giới”.

Những gì là cái ác của chướng giới? Các chướng đó là: phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Đây là ba chướng ngại lớn ngăn cản chúng sinh liễu sinh thoát tử, hành Bồ tát đạo

Trong pháp thọ giới của Bồ tát giới, chỉ hỏi thất nghịch (so với ngũ nghịch chướng Tỳ kheo giới thêm hai tội thất nghịch: giết Hòa thượngA xà lê). Thất nghịch thuộc về nghiệp chướng, hễ phạm một tội nào trong tội thất nghịch đều không thọ Bồ tát giới, đây là cái ác chủ yếu của chướng giới.

Kỳ thật trong ba chướng, chướng nào cũng đều thành giới chướng của Bồ tát. Nay đem tình hình của ba chướng giới căn cứ theo Giới Sớ của Ngài Nghĩa Tịch soạn thuật, phân biệt giới thiệu như sau:

1. Phiền não chướng có 4 thứ:

a/ Phóng dật: phóng dật thành tánh, tạm thời khó sửa đổi, vì thế không được thọ giới.

b/ Tự không thiện xảo và theo bạn ác, vốn không tưởng đến thọ giới.

c/ Bị người khác ràng buộc: người bị bậc tôn trưởng, chồng, chủ nhân, vua, giặc, oan gia cầu thúc, thân tâm chẳng được tự do, vì thế chẳng được thọ giới.

d/ Sinh hoạt cùng khốn: luôn luôn bị sự sinh hoạt chi phối lo lắng, vì thế không rảnh rang nghĩ đến thọ giới.

2. Nghiệp chướng có 2 thứ:

a/ Thất nghịch: là thất giá. Trong Kinh Phạm Võng nói: làm thân Phật ra máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá Yết ma tăngChuyển pháp luân tăng, giết Thánh nhân (Tiểu thừa La hán, Đại thừa Địa thượng Bồ tát).

b/ Thập trọng: là 10 điều thứ giới trọng của Anh LạcPhạm Võng

3. Báo chướng có 4 thứ:

a/ Địa ngục.

b/ Ngạ quỷ.

c/ Trong loài súc sinh không hiểu được lời của Pháp sư.

d/ Bắc câu lô châu và người bẩm tánh hạ liệt không tin nhân quả, ý chí bạc nhược.

Về ý nghĩa của ba chướng này cần phải nói thêm: phiền não chướng tuy có bốn thứ chướng giá nạn, Pháp sư Nghĩa Tịch đối với điều này giải thích như vầy: “vì không quyết định, nên chẳng phải nhu thất giá quyết định không đắc giới”, cũng là nói phiền não chướng có thể chướng giới nhưng chẳng phải tuyệt đối chướng giới.

Tội thất nghịch trong nghiệp chướng là không sám hối, người phạm tội thất nghịch bất luận sám hối hay không, hiện đời đều không được đắc giới. Như đều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng nói: nếu hiện thân có thất giá (nghịch), Sư chẳng nên cho thọ giới. Điều giới khinh thứ 40 cũng nói: Bồ tát Pháp sư không được cho người phạm tội thất nghịch hiện đời này thọ giới”. Lại nói: “Nếu đủ thất nghịch thì hiện đời không đắc giới”.

Trên thực tế, tội thất nghịch không phải ai ai đều có thể phạm đến được. Sinh sau Phật diệt độ không làm thân Phật chảy máu được. Trừ người xuất gia đã thọ giới Sa di trở lên thì không có Hòa thượng để giết (nhưng ngoại đạo Ấn Độ cũng có Hòa thượng, Hòa thượng ni). Người tục chưa quy y Phật giáo, không có A xà lê để giết. Người tại gia không đủ tư cách phá tăng. Trừ Tỳ kheo ra không có người có thể phá Chuyển pháp luân tăng, Tỳ kheo ni chỉ có thể phá Yết ma tăng chứ không thể phá Chuyển pháp luân tăng. Tăng có cơ hội giết Thánh nhân không phải là dễ. Thời nay, trọng yếu hơn hết là hai tội nghịch: giết cha, giết mẹ: người xuất gia thì có thêm giết Hòa thượng và giết A xà lê thành bốn tội nghịch là thuộc chủ yếu. Nhưng vì tuân theo quy chế, lúc hỏi vẫn hỏi cả thất nghịch.

Đến như phạm 10 giới trọng, được hay không được thọ giới lại, căn cứ vào Giới Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch có bốn thuyết bất đồng:

1. Bốn điều giới trước trong 10 giới trọng là căn bản tánh tội, hễ phá thì đồng như tội thất nghịch dù sám hối hay không sám hối, hiện đời cũng không đắc giới. Còn 6 điều giới sau, nếu có phạm mà sám thì không chướng giới.

 2. Nhưng trong điều giới khinh thứ 40 của Pham Võng nói: Nếu người phạm thập trọng phải dạy người ấy sám hối cho đến một năm, cần phải thấy hảo tướng. Hảo tướng như Phật đến xoa đầu, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các thứ tướng lạ, thì được diệt tội. Sau khi diệt tội được thọ giới lại.

3. Phạm 4 giới trọng trước, sám hối cần phải thấy hảo tướng, thấy hảo tướng thì được thọ giới lại, không thấy hảo tướng không được thọ giới lại. Phạm 6 giới trọng sau, dù không sám hối vẫn có thể thọ lại và đắc giới lại.

 4. Phạm 10 giới trọng không sám hối đều là giới chướng, sám hối đều được thọ giới lại.

 Nhưng, trong Kinh Anh Lạc lại nói: “10 giới trọng, có phạm không có hối, nhưng được thọ giới lại”. Đây là nói: phạm 10 giới trọng là không có pháp hối quá, nhưng phạm giới mất giới vẫn có thể sau khi mất giới xin thọ giới lại.

Báo chướng trong pháp thọ giới cũng chưa liệt vào “Giá nạn”. Đồng thời, Kinh Anh Lạc nói: “Lục đạo chúng sinh thọ đắc giới, chỉ hiểu lời nói của Pháp sư liền đắc giới, không mất”. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Hễ nghe được ý tứ của ngữ ngôn của Pháp sư thuyết pháp, tất cả chúng sinh đều được thọ đắc giới. Trên thực tế, vấn đề “Hiểu lời của Pháp sư” cũng khó đối với nhiều chúng sinh. Chúng sinh do nghiệp báo bị đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, chịu khổ không ngừng, khó có cơ hội và năng lực nghe pháp. Đến như súc sinh lợi căn hiểu được tiếng nói của Pháp sư không phải không có, nhưng rất ít có. Người Bắc câu lô châu vốn không tin Phật pháp. Nhân loại trong thế giới này của chúng ta cũng có nhiều người không dám tin Phật hoặc không muốn tin Phật. Đây thuộc về quả báo chướng ngại đến cùng một lượt với đời sống. Nhưng trong súc sinhchúng sinh hiểu lời nói, trong địa ngụcchúng sinh tội nhẹ, trong ngạ quỷ cũng có chúng sinh có phước. Những chúng sinh này đều có thể thọ Bồ tát giới, vì thế báo chướng đối với việc thọ Bồ tát giới mà nói, cũng không phải quyết định không được đắc giới. Nhưng chúng ta phải biết, đây là một môn của giới chướng.

Cái ác của chướng giới như bệnh khuẩn có sức kháng dược tánh cực mạnh, nếu loại khuẩn bệnh này còn ở trong thân thể con người thì uống thuốc bổ đều không công hiệu và không làm sao bổ ích được. Tính chất của tội thất nghịch khó trị liệu, đại khái có thể so sánh với vi khuẩn ung thư trong giới y học ngày nay.

Nay đem các điều kiện chủ yếu của sự cầu thọ Bồ tát giới liệt vào đồ biểu như sau:

 blank

III. VẤN ĐỀ THẦY TRÒ CỦA BỒ TÁT GIỚI

Nhân vì Bồ tát giới vốn có nhiều thứ, nên vấn đề thầy trò cũng đều riêng có bất đồng. Trong đó, yêu cầu của Kinh Anh Lạcrộng rãi hơn hết: “Về vấn đề này, thì vợ chồng, lục thân đều làm thầy truyền giới cho nhau”. Đó nói là: phàm là người đã thọ Bồ tát giới rồi, bất luận tăng tục, giả sử vợ chồng và lục thân tại gia cũng có thể truyền thọ giới pháp Bồ tát cho nhau. Nhưng theo sự giải thích của Pháp sư Nghĩa Tịch: “Giới tại gia có thể như Kinh, năm chúng xuất gia cần phải đủ đức (mới được truyền thọ)”.

Yêu cầu của Ưu bà tắc Giới Kinh rất nghiêm khắc: mãn 6 tháng gần gũi bậc trí giả xuất gia, bậc trí giả lại phải hết lòng xem xét bốn oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm) của người này, nếu biết người này làm được như lời dạy…, qua 6 tháng xong, hòa hợp tăng chúng, đủ 20 người tác bạch yết ma”, mới có thể truyền Đại thừa ngũ giớiBồ tát giới 6 trọng 28 khinh.

Theo pháp truyền giới của Phạm Võng do Ngài La Thập truyền, nói: Thầy phải là Bồ tát xuất gia đầy đủ năm đức:

1. Kiên trì tịnh giới

2. Mười năm giới lạp

3. Khéo hiểu luật tạng

4. Có công phu tu thiền

5. Trí tuệ sâu, biện tài vô ngại

Lại nói còn có 4 đức:

1.  Đồng pháp Bồ tát: biểu thị không phải là người học Tiểu thừa.

2. Đã phát đại nguyện: biểu thị không phải là người chưa phát Bồ đề tâm.

3. Có trí lực: biểu thị đối với văn nghĩa của Kinh luật hiểu được, trì được.

4. Nơi ngữ biểu đạt nghĩa, có khả năng truyền dạy: biểu thị có khả năng dùng ngôn ngữ biện luận rõ ràng, thuyết pháp dạy người khiến cho mở thông tâm trí.

Trong Kinh Địa Trì nói: “Cần phải giới đức nghiêm minh, khéo hiểu tam tạng, có thể làm cho người phát khởi tâm kính tin mới có thể làm thầy cho người cầu thọ Bồ tát giới”.

Trong Thiện Giới Kinh lại đòi hỏi kỹ lưỡng hơn: nếu người bất tín, chẳng nên theo thọ giới, người bỏn xẻn tham lam, người không biết đủ, phá giới, ô giới, không kính trọng giới, người thích tham sân, người không nhẫn nhục, người không có khả năng ngăn tội lỗi của người khác, người biếng nhác, giải đãi, ham hưởng thụ thú vui thế gian, thích nói chuyện đời, cho đến không có một niệm nghĩ đến Tam bảo, nghi ngờ, ngu si tăm tối không đọc tụng được Bồ tát pháp tạng (Kinh tạng), Bồ tát ma di (Luận tạng) và sinh phỉ báng, người như thế không nên theo thọ giới”.

Do đây đủ thấy muốn làm một Giới sư Bồ tát giới thật không phải dễ.

Đến như thái độ của một vị Bồ tát Pháp sư, trong Kinh Phạm Võng còn có yêu cầu:

1. Điều giới khinh thứ 22: “Nếu pháp sư tự ỷ mình hiểu Kinh luật, Đại thừa học giới, kết bạn cùng với quốc vương, thái tử, bá quan, mà tân học Bồ tát đến cầu hỏi hoặc nghe Kinh, nghĩa luật, lại vì tâm khinh ghét, tâm ngã mạnkhông giải đáp, đây là phạm khinh cấu tội”.

2. Điều giới khinh thứ 40: “Lúc cho người thọ giới không được lựa chọn, tất cả quốc vương, vương tử, đại thần, bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ , mười tám Phạm thiên, thiên tử sáu cõi Dục, người không căn (không có sinh thực khí), huỳnh môn, nô tỳ, tất cả quỷ thần đều được thọ giới”

3. Điều giới khinh thứ 41: “Bậc thầy giáo giới phải ở trong pháp Bồ tát giới này mỗi mỗi đều hiểu rõ. Nếu không hiểu Kinh luật Đại thừa hoặc khinh hoặc trọng, tưởng phải chẳng phải, không hiểu đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưởng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh. Trong đó, bao nhiêu quán hạnh xuất nhập, 10 chi thiền, tất cả hành pháp mỗi mỗi không hiểu ý nghĩa trong các pháp này. Vì lợi dưỡng, vì danh tiếng, ác cầu, đa cầu, vì tham lợi, tham nhiều đệ tử mà dối hiện thông hiểu tất cả Kinh luật, và mong muốn cúng dường đó là tự dối mình cũng là gạt người khác, cố truyền giới cho người, phạm khinh cấu tội”.

4. Điều giới khinh thứ 46: “Pháp sư Tỳ kheo không được đứng thuyết pháp cho tứ chúng nghe. Lúc thuyết pháp, Pháp sư phải ngồi tòa cao, hương hoa cúng dường, tứ chúng nghe pháp phải ngồi dưới thấp.

Trong Kinh Địa Trì và Kinh Anh Lạc đều nói chỉ có một vị Giới sư. Trong điều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng lại nói: “Thấy người muốn thọ giới phải thỉnh hai sư; Hòa thượng, A xà lê. Hai sư phải hỏi…” đủ thấy phải có hai vị pháp sư, nhưng trong pháp thọ giới của Phạm Võng cũng chỉ có một sư. Trong Tỳ Ni Hậu Tập Vấn Biện của Đại sư Ngẫu Ích có nói như vầy: “Nếu theo kinh văn dường như cần phải hai sư. Nhưng Anh lạc, Địa Trì đều chỉ một sư. Lại, pháp thọ giới của Phạm võng truyền từ Ngài La Thập ghi trong Nghĩa Sớ cũng chỉ có một sư. Chỗ nói thỉnh hai sư, là thỉnh Phật, Bồ tát. Chỗ nói: phải cúng dường hai sư đúng như pháp và giết hai sư hành tội nghịch cũng có thể là chỉ hai sư của giới Tỳ kheo”. Ý kiến này của Đại sự Ngẫu Ích là căn cứ vào Giới Sớ của Đại sư Trí Giả. Nhưng Đại sư Trí Giả đối với hai vấn đề này còn có nghi vấn, Ngài nói: “Văn lại nói: hai sư phải nói: Ông có phạm thất giá không? Dường như không phải chỉ Phật”. Điều này Đại sư Ngẫu Ích chưa có giải nói và cho đến ngày nay cũng chưa được giải rõ!

Xét theo nội dung của pháp thọ giới Bồ tát, vị Hòa thượng của Bồ tát giới là Phật Bổn Sư trên địa cầu này, sau Phật Thích Ca, trước Phật Di Lặc thì Thích Ca là Phật Bổn sư của chúng Tỳ kheo, vì thế Thích Cađắc giới Hòa thượng của Bồ tát giới. Bồ tát Văn ThùYết ma sư, Bồ tát Di Lặcgiáo thọ sư, tất cả Như lai làm tôn chứng, tất cả Bồ tát Ma ha tátđồng học. Vị Bồ tát pháp sư chỉ phụ trách giáo giới, khải phát và ở bên cạnh làm chứng, vì thế trong điều khinh thứ 41 của Phạm Võng gọi Bồ tát pháp sư là “ Trí giả”. Ngài Đàm Vô Sấm truyền Bồ tát giới cho Đạo Tấn, cũng chỉ là “làm chứng” mà thội.

Còn “hai sư” của “hai sư phải hỏi” làm sao giải thích? Tôi nghĩ chỉ có một cách giải thích là do sự lầm lẫn trong quá trình sao chép truyền bá tạo thành, hoặc có thể vì chép Kinh đem hai chữ “Pháp sư” viết lầm ra hai sư. Trừ cách giải thích này ra, không có cách giải thích hợp lý về ý nghĩa của hai chữ “Hai sư” này muốn chỉ.

Nhưng đối với hai chữ hai sư này, các nhà chú giải cũng có nhiều ý kiến khác nhau:

1. Đại sư Pháp Tạng nói: “Ở đây có 2 nghĩa: Một là thỉnh hai sư thọ Bồ tát giới như thọ Sa di thập giới. Hai là thỉnh Bổn Sư Thích Ca Phật làm Hòa thượng, Sư đích thân truyền giới làm A xà lê”. Ngài Pháp Tạng tiếp theo nêu luận chứng: “Thiện Giới Kinh nói: Sư có 2 loại: một là không thể thấy được, tức là Phật, Bồ tát tăng; hai là có thể thấy được, đó là Giới sư; từ hai sư này đắc Bồ tát giới”. Phổ Hiền Quán Kinh thỉnh ba sư là ở trong Sư không thể thấy mà thỉnh, trong Du già thỉnh một sư là chỉ cho sư có thể thấy.

2. Pháp sư Nghĩa Tịch nói: Làm Thọ giới sư cho người phải chánh chế Hòa thượng, vì trước sau thân giáo là Hòa thượng… Lại phải có một người làm Yết ma sư, còn dạy thỉnh thêm một người là A xà lê … nghĩa là đồng giới pháp thọ Sa di của Thanh Văn.

3. Trong Thái Hiền Cổ Tích Ký nói: Phải dạy thỉnh hai sư, Hòa thượng là gốc của đắc giới, A xà lênhân duyên của đắc giới. Phổ Hiền Quán Kinh nói: thỉnh ba sư là vì cần kính trọng. Du già chỉ thỉnh có một sư, vì một người có khả năng làm được nhiều việc.

Trên thực tế, ý kiến của các vị Cổ Đức đều có chỗ đáng quý. Nhưng đối với câu: “Hai sư phải hỏi” đều được giải thích được ổn thỏa. Bất luận là giới sư có thể thấy hay không thể thấy, thọ giới quyết không thể chỉ cho Phật, Bồ tát không thế thấy, cũng không thể liên tưởng đến Thân giáo Hòa thượngYết ma A xà lê. Riêng nói với Bồ tát, trừ Giáo giới sư là người hiện tiền lúc thọ giới, Hòa thượng Phật và Bồ tát A xà lê không thể thấy, nhưng cũng không cần Tỳ kheo Pháp sư thay thế Phật và Bồ tát làm Hòa thượngA xà lê, và cũng không thay thế được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49721)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34617)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33437)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43911)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57040)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47554)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52926)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36592)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40452)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46700)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28687)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29219)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33352)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60973)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39727)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26655)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29650)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40076)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28279)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34617)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30464)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28554)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25480)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26712)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27692)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30176)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27693)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35429)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant