Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ năm

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12349)
Ngày thứ năm

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ năm:

Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về việc ăn chay, phóng sanh

Pháp môn Tịnh Ðộ lợi khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn duy nhất vô thượng trong thời này. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm phu khổ não, lo gấp thoát sanh tử làm gì, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người là được rồi!” Hai hạng người này đều chẳng hiểu rõ nhân quả vậy. Bởi thế, hôm nay tôi lại giảng về nhân quả

Các vị phải biết câu: “Chúng sanh tức là Phật” chỉ cho cái nhân chân thậtPhật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu diệu hạnh Niệm Phật thì Phật tánh không cách nào hiển hiện, làm sao giải thoát sanh tử, thành tựu thật quả Phật đạo được? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật chẳng mất mảy may. Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì lại chiếu soi hết thảy. Còn như lời lẽ: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, cam bề đọa lạc

Nay người đời mải lo bon chen, tranh chấp, chẳng hề đoái hoài chuyện sanh tử, chẳng biết là bao nhiêu. Nếu họ có thể dụng công tu hành niệm Phật khó nhọc như thế thì lo gì chẳng được vãng sanh Tây Phương, thượng chứng Phật quả! Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi. 

Trong cuốn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị gốc bệnh cam bề đọa lạc và bệnh tự tôn, tự đại sai lầm. Giáo thuyết ấy rất tinh xác, kẻ học Phật chẳng thể không biết đến. 

“Lục tức Phật” là: một là lý tức Phật, hai là danh tự tức Phật, ba là quán hạnh tức Phật, bốn là tương tự tức Phật, năm là phần chứng tức Phật, sáu là cứu cánh tức Phật. “Lục”: minh thị thứ lớp sâu cạn, “tức”: chỉ rõ ngay nơi thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể vội bảo nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì chẳng sẽ chẳng lui sụt, khiếp nhược. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn, từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do “lý tức Phật” mà thành “cứu cánh tức Phật” vậy. 

a. “Lý tức Phật” là hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng Phật tánh công đức vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là “lý tức Phật”, coi lý thể của tâm tức là Phật vậy. Ông Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng: 

Ðộng, tịnh lý toàn thị 

Hành, tàng sự tận phi, 

Minh minh tùy vật khứ, 

Yểu yểu bất tri quy 

(Ðộng, tịnh vốn toàn lý, 

Hành, tàng chẳng trúng gì, 

Tối tăm theo đuổi vật, 

Mờ mịt chẳng biết về) 

Ðấy là vì hết thảy chúng sanh tuy chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh vốn toàn lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng xứng với Phật tánh. Quanh năm, suốt tháng, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục, phiền não vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết phản chiếu hồi quang, nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”. 

b. “Danh tự tức Phật” là do nghe từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ, tịch chiếu viên dung, Phật tánh bất sanh, bất diệt. Về phương diện danh tự, thông đạt, hiểu rõ, biết hết thảy Phật pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó chính là: nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thông đạt Phật pháp. Kệ tụng rằng: 

Phương thính vô sanh khúc, 

Thỉ văn bất tử ca, 

Kim tri đương thể thị 

Phiên hận tự ta đà. 

(Vừa lắng khúc vô sanh

Thoảng nghe bài bất diệt

Liền biết ngay đương thể

Tiếc đã trót lần khân)

Ý nói: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay mới biết Phật tánh chơn thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể chính là nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, chỉ hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm đến nỗi đến hiện giờ vẫn chưa thể sớm chứng Thật Quả được! 

c. “Quán hạnh tức Phật” là y giáo tu Quán, tức là địa vị ngoại phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là: 

1. Tùy Hỷ Phẩm: nghe pháp Thật Tướng, tín giải, tùy hỷ

2. Ðộc Tụng Phẩm: đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh, hiểu biết

3. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho tha nhân

4. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để hỗ trợ quán tâm

5. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Chánh hành Lục Ðộ, tự mình hành, dạy người khác hành, đầy đủ cả Sự lẫn Lý. Quán Hạnh càng thêm thù thắng

Kệ tụng rằng:

Niệm niệm chiếu thường lý 

Tâm tâm tức huyễn trần 

Biến quán chư pháp tánh 

Vô giả diệc vô chân. 

(Niệm niệm chiếu thường lý, 

Tâm tâm bặt huyễn trần 

Quán khắp các pháp tánh

Nào còn giả cùng chân)

Ðã viên ngộ Phật tánh, y giáo tu Quán để đối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, nào còn giả cùng chân”. 

c. “Tương tự tức Phật” là tương tự giải ngộ, khai phát, tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng: 

Tứ Trụ tuy tiên thoát, 

Lục trần vị tận không 

Nhãn trung do hữu ế 

Không lý kiến hoa hồng 

(Trước đã thoát Tứ Trụ

Nhưng lục trần chửa không, 

Mắt vẫn còn màng mộng 

Thấy hoa đốm trên không) 

Tứ Trụ là: 

1. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới

2. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới

3. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới

4. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới

Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: “Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp vẫn còn, chưa đoạn sạch nên bảo là: “Nhưng lục trần chửa không”. Ðây là luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn hết sạch. Tập khí là những dư âm của các Hoặc Chướng. Giống như cái mâm đựng thịt đã rửa sạch, nhưng vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Pháp Giới

d. “Phần chứng tức Phật” là Thập Tín hậu tâm. Phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức nên gọi là “phần chứng tức Phật”. Là vì với bốn mươi hai phẩm Vô Minh, Sơ Trụ phá được một phần; cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Từ các địa vị Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác lần lượt phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụthể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này đã chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát? Kệ tụng rằng: 

Khoát nhĩ tâm khai ngộ 

Trạm nhiên nhất thiết thông 

Cùng nguyên do vị tận 

Thượng kiến nguyệt mông lung 

(Ðột nhiên tâm khai ngộ

Lặng trong hết thảy thông, 

Vẫn chưa thông tận gốc 

Còn thấy nguyệt mông lung) 

“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói về cảnh tượng chứng ngộ đôi phần, phá được vô minh đôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, còn thấy nguyệt mông lung” ý nói còn bị mây vô minh che lấp nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chơn trong tự tánh

e. “Cứu cánh thành Phật” là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên thấu đạt tột cùng Chơn Tánh, đoạn sạch Hoặc Chướng, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chơn Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Kệ tụng rằng: 

Tùng lai chơn thị vọng 

Kim nhật vọng giai chơn 

Ðản phục bổn thời tánh 

Cánh vô nhất pháp tân. 

(Từ trước, chơn là vọng 

Hôm nay, vọng là chơn, 

Chỉ khôi phục bổn tánh 

Có pháp nào mới đâu?)

“Từ trước chơn là vọng” nghĩa là trước khi chứng ngộ tuy thấy Ngũ Uẩn này đều là không, nhưng lầm sanh chấp trước khiến cho Sắc Pháp, Tâm Pháp thành lập đến nỗi khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn thấy Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chơn Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn. Vì thế, bảo là: “Hôm nay, vọng là chơn”. Nhưng sở chứng ấy nào phải là điều gì mới mẻ, chẳng qua là phục hồi lại Chơn Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bổn tánh, có pháp nào mới đâu?” 

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi, trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ tâm, chứng tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch bất tín, tâm Phật cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy kẻ đó chính là vị Phật chưa thành vậy. 

Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm bảo tôi: “Pháp Sư Viên Anh nói đạo tràng sắp viên mãn. Ngày hoàn mãn sẽ cử hành phóng sanh. Ðến ngày 16 sẽ nói về Tam Quy, Ngũ Giới”, xin tôi vì đại chúng giảng đại ý việc phóng sanh và thọ Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mong đại chúng cùng phát tâm lợi vật, lợi người. Bởi thế, bây giờ tôi sẽ riêng tuyên giảng. 

Pháp hội này vốn là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì đa phần là vì sát sanh, ăn thịt mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát kiếp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm giữ gìn, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm” Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn nhắc, tận lực cảnh tỉnh, kiêng dè

Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát tâm giữ gìn sanh mạng. Chính mình đã phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Chính mình đã chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy giữ gìn, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa thì loài vật còn chẳng nỡ giết, huống hồ là giết người? Tự nhiên trừ được sát kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy dù có chút công đức phóng sanh, vẫn e khó địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! 

Hiện pháp hội này dự định ngày viên mãn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm quyên trợ, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến ngày kế đó, đệ tử quy ycúng dường chi, Ấn Quang tôi quyết định dùng hết vào việc ngăn ngừa tai nạn, trọn chẳng để dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông Tăng trơ trọi, vốn đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, có giữ tiền cũng vô dụng! Mai kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển là hết chuyện, cũng chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ hình thức kỷ niệm nào. 

Ngay cả việc quy y đây, từ đầu tôi vốn chẳng thuận, nhưng bởi cư sĩ Khuất Văn Lục và pháp Sư Viên Anh đốc thỉnh, viện lẽ các vị phát tâm cầu pháp tình ý ân cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, chẳng thể khước từ, nên đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chuẩn bị cho quy y. Tôi thì không tiền cũng quy y được, chỉ cần thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua được danh mục quy y! Như thế thì mới là tín đồ chơn thật quy y Tam Bảo, mới có thể đạt đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15563)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13262)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14445)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18423)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30754)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12417)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15520)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13529)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14450)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18822)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14991)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14591)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14574)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13787)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19695)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14435)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14518)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14715)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14761)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17913)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13564)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13688)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14946)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14154)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16423)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15324)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13147)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12987)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14083)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14722)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14217)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14610)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13001)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13808)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13261)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13742)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14687)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14756)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13275)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12834)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13737)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13672)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13325)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13886)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13692)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12591)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14813)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12875)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12446)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant