Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3: Trích Giảng Thiền Sử

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8532)
Phần 3: Trích Giảng Thiền Sử

NHẶT LÁ BỒ ĐỀ
HT Thích Thanh Từ

Tập 3

Phần 3

Trích Giảng Thiền Sử


1. Ðạo Tại Trước Mắt

Có vị Tăng đến hỏi Thiền Sư Duy Khoan:

-- Ðạo tại chỗ nào?

Sư đáp:

-- Chỉ tại trước mắt.

-- Sao tôi chẳng thấy?

-- Do ông có ngã nên không thấy.

-- Tôi có ngã nên chẳng thấy. Hòa Thượng có thấy chăng?

-- Có ông có ta lăng xăng cũng chẳng thấy.

-- Không tôi không Hòa Thượng lại có thấy chăng?

-- Không ông không ta ai lại cầu thấy?

Bình:

Ðạo là cái gì mà lại cầu thấy, vừa nghĩ thấy đạo, đạo đã thành cái bị thấy. Vừa thấy kia đây càng xa tít. Thế nên nói: Chỉ buông xả cái thấy hai tức là đạo rồi, nói gì thấy chẳng thấy.

Chẳng rời hiện tại thường lặng lẽ
Còn tìm tức biết anh chưa thấy.

2. Sáu Căn Tức Giải Thoát

Thiền Sư Quảng Trừng, ở Ðại Ðồng Tào Châu. Có vị Tăng đến hỏi:

-- Làm thế nào diệt được sáu căn?

Sư nói:

-- Hươi kiếm chém hư không, đâu thể gây thương tích cho các vật.

Bình:

Sáu căn vốn không có lỗi, lỗi tại phân biệt mà khởi tham sân, phân biệt nếu không, tham sân từ đâu mà có, ngay đó sáu căn tức giải thoát, đâu cần diệt chẳng diệt?

3. Chẳng Làm Việc Gì

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm, một hôm đứng hầu Hòa Thượng Thạch Ðầu. Hòa Thượng hỏi:

-- Trong ấy ông làm việc gì?

Sư thưa:

-- Một việc cũng chẳng làm.

-- Thế ấy thì ngồi không chăng?

-- Nếu ngồi không tức là làm.

-- Ông nói chẳng làm, là chẳng làm việc gì?

-- Ngàn Thánh cũng chẳng biết.

Bình:

Vậy ai biết cái chỗ chẳng làm? Nếu có chỗ tức thành cái bị biết rồi!

Thế nên, ngồi không mà tỉnh sáng tức thiền. Ngồi mà kềm tâm là chưa thoát khỏi Nhị thừa, ngồi mà tâm chạy đầu này đầu kia là thuộc phàm phu. Nếu còn thấy có chỗ làm tức còn bị trói. Tuy nhiên chớ hiểu không làm là ngồi không mặc tình tâm ý chạy Ðông chạy Tây là lầm! Do đó nói: Chỗ này "ngàn Thánh cũng chẳng biết". Ðó là cái chỗ chẳng làm.

4. Ông Nay Biết Ta Chăng?

Thạch Ðầu Hy Thiên đến tham vấn Thiền Sư Hành Tư. Sư hỏi:

-- Ông từ phương nào đến?

Hy Thiên thưa:

-- Con từ Tào Khê đến.

-- Ðem vật gì đến?

-- Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

-- Nếu thế ấy sao chẳng dừng đi, đến Tào Khê làm gì?

-- Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất.

Hy Thiên lại hỏi:

-- Ðại Sư ở Tào Khê có biết Hòa Thượng chăng?

-- Ông nay biết ta chăng?

-- Biết, lại đâu thể biết đặng.

-- Loài có sừng tuy nhiều, chỉ một con lân là đủ.

Bình:

Hỏi: "Ðem một vật gì đến", đáp: "Khi chưa đến cũng chẳng mất" là cái đó vốn sẳn có. Hỏi: "Nếu thế ấy sao chẳng dừng đi, đến Tào Khê làm gì?". Ðáp: "Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất" là tuy vốn sẵn có nhưng nếu không nhờ thiện tri thức chỉ cho thì đâu thể biết được. Hỏi: "Ông nay biết ta chăng?", đáp: "Biết lại đâu thể biết được" là cái chỗ đó mắt Phật cũng không thể thấy. Cuối cùng câu "Loài có sừng tuy nhiều nhưng một con lân là đủ", thầm tự biết là đủ.

5. Thấy Hoa Ðào Nở

Thiền Sư Chí Cần ở Linh Vân Phước Châu, người Trường Khê Bổn Châu. Ban đầu ở chỗ Ngài Qui Sơn, nhân thấy hoa đào ngộ đạo. Sư có làm kệ:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Cơ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực đáo như kim cánh bất nghi.

Tạm dịch:

Ba chục năm qua tầm kiếm khách
Bao lần lá rụng lại vin cành
Từ khi thấy được hoa đào nở
Mãi đến ngày nay lại chẳng nghi.

Tổ Qui Sơn xem bài kệ và hỏi chỗ sở ngộ của Sư mới biết có chỗ khế hợp với Ngài. Tổ bảo: "Theo duyên ngộ đến chỗ tột, hằng không lui sụt, ông phải tự khéo giữ gìn".

Bình:

Thử hỏi chỗ nào là chỗ Ngài Linh Vân ngộ? Có phải ở hoa đào chăng? Và đâu là chỗ chẳng nghi? Nếu cho cái ngộ ở chỗ hoa đào thì tại sao mỗi năm xuân về chúng ta vẫn thấy hoa đào nở mà không ngộ?

Chớ thấy hoa đào tầm kiếm khách
Quên rằng ôm ấp đã bao năm!

6. Chẳng Phải Xưa Nay

Thiền Sư Sở Nam ở núi Thiên Khoảnh, Hàng Châu. Ban đầutham vấn Thiền Sư Phù Dung, Phù Dung thấy bảo: "Ta chẳng phải Thầy ông. Thầy ông là Hoàng Bá". Sư lễ bái đến Hoàng Bá.

Hoàng Bá hỏi:

-- Hình ảnh (ảnh tượng) ông khi chưa hiện trong tam giới (ba cõi) như thế nào?

Sư thưa:

-- Tức hiện nay đâu phải có.

Hoàng Bá nói:

-- Có không gát lại, tức hiện nay như thế nào?

Sư thưa:

-- Chẳng phải xưa nay.

Hoàng Bá nói:

-- Pháp nhãn của ta chính nơi ông.

Bình:

Như vậy ai biết được hình ảnh khi chưa hiện trong ba cõi? Cái này chẳng thuộc xưa nay, vượt ngoài giới hạn của thời gian:

Tuy có hiện thân trong ba cõi
Hiện tại có gì trói được y!

7. Châu Ma Ni

Thiền Sư Tổ hiệu Vân Tế ở núi Chung Nam. Ban đầu đến tham vấn Ngài Nam Tuyền. Sư hỏi:

-- Mỗi người có hạt châu Ma ni mà người chẳng biết. Hạt châu ấy ở trong tàng (kho) Như Lai phải chính mình nhận được. Thế nào là Tàng?

Nam Tuyền đáp:

-- Cùng ông qua lại đó là Tàng.

-- Khi chẳng qua lại thì thế nào?

-- Cũng là Tàng

-- Thế nào là châu?

Ngài Nam Tuyền liền gọi:

-- Sư Tổ.

Sư Tổ liền ứng thinh:

-- Dạ!

Ngài Nam Tuyền nạt:

-- Ði đi! Ông chẳng hội lời ta nói.

Sư Tổ từ đây có chỗ tin vào.

Bình:

Qua tiếng kêu dạ, Sư Tổ đã thấy được hạt châu Ma Ni.

8. Người Không Biết Ðặng Y

Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên đời Ðường, ban đầu Sư (Thiền Sư Linh Mặc) đến trụ ở đạo tràng Bạch Nhai, sau đến Ngũ Duệ.

Có vị Tăng đến hỏi:

-- Vật gì lớn nhất trong trời đất?

Sư đáp:

-- Không người biết đặng y.

-- Lại có thể điêu khắc chăng?

-- Ông hạ thủ thử xem?

-- Trong cửa việc này trước sau như thế nào?

-- Ông nói trước mắt, từ thành đến nay bao lâu?

-- Học nhân chẳng hội.

-- Cái hỏi này của ta, chẳng phải cái hỏi của ông.

-- Hòa Thượng há không chỗ tiếp người.

-- Ðợi ông cầu tiếp ta liền tiếp.

-- Xin thỉnh Hòa Thượng tiếp.

-- Ông kém thiếu cái gì?

-- Làm sao được vô tâm?

-- Núi nghiêng lấp biển thường yên tịnh.

Ðất chuyển ngủ khò há động y.

Bình:

Cái thể bằng trời đất kia, không lệ thuộc không gian, thời gian, cũng chẳng do tạo tác thành. Nếu sống được với cái đó thì tất cả động tịnh của thế gian không gì lay chuyển được. Ðó là chỗ không người biết đặng!

9. Ông Hỏi Cái Gì?

Có vị Tăng đến hỏi Hòa Thượng Phước Khê:

-- Thế nào là tự kỷ?

Phước Khê đáp:

-- Ông hỏi cái gì?

-- Hòa Thượng há không phương tiện?

-- Ông đến đây hỏi cái gì?

-- Cái gì là điên đảo?

-- Hôm nay ông đáng ăn gậy trong tay của Lão Tăng.

Bình:

Hỏi ở trong đáp.

10. Trồng Hoa Trên Ðá

Hòa Thượng Thạch Ðầu bảo:

-- Nói năng động dụng chớ dính mắc.

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm thưa:

-- Không nói năng động dụng cũng chớ dính mắc.

-- Ta trong ấy một mũi kim cũng chẳng lọt.

-- Con trong ấy như hoa trồng trên đá.

Thạch Ðầu chấp nhận và nói kệ khen:

Tùng lai cộng trụ bất tri danh
Nhậm vận tương tưởng chỉ ma hành
Tự cổ thượng hiền giai bất thức
Tạo thứ phàm lưu khởi khả minh.

Tạm dịch:

Từ xưa chung ở chẳng rõ danh
Ngồi đứng theo nhau trong các hành
Chư thánh từ xưa còn chẳng biết
Hà huống phàm phu có thể rành.

Bình:

"Nói năng động dụng chớ dính mắc" là chẳng chấp có. "Chẳng nói năng động dụng cũng chẳng dính mắc" là chẳng chấp không. "Ta trong ấy một mũi kim cũng chẳng lọt, con trong ấy như hoa trồng trên đá" là bặt cả có không, tâm hằng miên mật không một điểm dính mắc, không một kẻ hở, tức là hằng sống trong ấy. Rõ được chỗ này liền rõ cái kẻ "Từ lâu chung ở chẳng biết tên". Vì y không tên tuổi vậy.

11. Thượng Ðường

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm dạy chúng:

-- Tổ Sư chỉ dạy phải khéo bảo hộ, khi tham, sân, si cần thiết phải ngăn cấm chẳng để nó tăng trưởng. Nếu ông muốn biết cây khô ở Thạch Ðầu, cần phải gánh vác chỗ thật (thân cây) không nhánh lá mới được. Tuy nhiên như thế, phải nên tự xem, chẳng được dứt bặt nói năng. Tôi nay vì ông nói năng, để hiển bày cái không nói năng. Cái ấy xưa nay vốn không tai, mắt, tướng mạo v.v...

Có vị Tăng hỏi:

-- Làm thế nào khỏi bị các cảnh làm mê lầm?

Sư đáp:

-- Ngoại cảnh có gì ngại được ông.

-- Con chẳng hội.

-- Cảnh đâu làm ông mê lầm?

Bình:

1. Cái cội nguồn chân thật ấy là cái không ngôn ngữ, còn có ngôn ngữ chỉ là cành lá. Cho nên nói: "Cái ấy xưa nay vốn không tai, mắt, tướng mạo v.v...

2. Cảnh vốn không làm lầm người, chỉ tại người tự lầm cảnh. Nghĩa là tự mê mình mà chạy theo cảnh, thành ra bị cảnh chuyển, không thấy được sự thật. Nếu ngay nơi cảnh mà tỉnh giác trở lại thì có gì chướng ngại?

12. Sanh Diệt Khứ Lai

Thiền Sư Như Mãn ở Phật Quang, Lạc Kinh đáp những câu hỏi của vua Ðường Thuận Tông.

Vua hỏi:

-- Phật đản sanh từ phương nào đến? Khi nhập diệt đến phương nào? Ðã nói Ngài thường trụ ở đời. Vậy nay Phật ở đâu?

Sư đáp:

-- Phật từ vô vi đến, khi diệt độ trở về với vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường trụ chỗ vô tâm, có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh đi, trong sạch chân thật như biển, thể hằng vắng lặng. Người trí khéo xét biết, chớ sanh niệm hồ nghi.

Vua hỏi:

-- Phật đản sanh tại Vương cung khi nhập diệt giữa rừng Song Thọ, thuyết pháp 49 năm, tại sao nói Phật không nói một pháp? Núi sông, biển lớn, trời đất, mặt trời, mặt trăng trải qua thời gian (thời chí) cũng đều hoại diệt, tại sao nói chẳng sanh, chẳng diệt? Những điều nghi ấy xin bậc trí khéo giản trạch.

Sư đáp:

-- Thể tánh của Phật vốn vô vi, do mê tình (chúng sanh) vọng phân biệt, pháp thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt, có duyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt. Những nơi giáo hóa chúng sanh cũng như bóng trăng hiện trong nước, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, sanh cũng chưa từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Thấy rõ chỗ vô tâm tự nhiên không có một pháp để nói.

Vua nghe xong rất vui vẻ và càng kính trọng Thiền Tông.

Bình:

Ngài chỉ thẳng Phật Pháp thân không sanh diệt đến đi, có đến đi là thuộc Hóa thân. Tuy hiện có sanh diệt đến đi mà thể hằng vắng lặng, như bóng trăng trong nước không thể nói có hay không. Nếu thấy được chỗ không tâm thì Phật thường hiện tiền, nhận được chỗ không tâm liền thấy "Phật không nói pháp". Phải khéo nhận kỹ chớ kẹt trên ngôn từ!

13. Từ Trong Ấy Ra

Thiền Sư Hy Thiên ở núi Nam Nhạc, Thạch Ðầu.

Sư con nhà họ Trần, quê ở Cao Yếu, Ðoan Châu. Ban đầu đến Tào Khê đặng độ. Khi Sư chưa thọ giới Cụ túc lại gặp lúc Lục Tổ thị tịch. Vâng lời di chúc, Sư đến yết kiến Ngài Thanh Nguyên và xin y chỉ. Một hôm, Thanh Nguyên hỏi Sư:

-- Có người nói Lãnh Nam (nơi Lục Tổ ở) có tin tức (đại đạo) phải chăng?

Sư thưa:

-- Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức.

-- Nếu thế ấy Ðại tạng, Tiểu tạng từ đâu mà ra?

-- Từ trong ấy mà ra.

Ngài Thanh Nguyên gật đầu chấp nhận.

Bình:

Cái gì là trong ấy?

-- Ba đời chư Phật thường hộ niệm!

14. Ðãi Gạo

Ở Ðộng Sơn, Tuyết Phong đang đãi gạo, Khâm Sơn hỏi:

-- Ðãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?

Sư đáp:

-- Gạo cát đồng thời bỏ.

Khâm Sơn hỏi:

-- Ðại chúng lấy gì ăn?

Sư bèn lật úp thau đãi gạo.

Khâm Sơn nói: Cứ theo nhân duyên này huynh hợp ở Ðức Sơn.

Trong đây ai có thể đáp một câu để khỏi bị người kiểm điểm xem?

Bình:

Gạo là gạo, cát là cát chẳng dính dáng gì đến việc kia!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10400)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28831)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17457)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19262)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20495)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18673)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12201)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15049)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20226)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15076)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11676)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11511)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18439)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant