Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Bốn thứ thiền

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9169)
7. Bốn thứ thiền

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
(Phần 2)
QUYỂN THỨ NHÌ

- Lại nữa, Đại Huệ! Có bốn thứ thiền. Thế nào là bốn? 1. Phàm phu sở hành thiền.

2. Quán sát nghĩa thiền. 3. Phan duyên như thật thiền. 4. Như Lai thiền.

- Thế nào là PHàM PHU SỞ HÀNH THIỀN? Là nói Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo tu hành, quán nhân vô ngã tánh, tự tướng cộng tướng, lóng xương liền nhau, vô thường, khổ, tướng bất tịnh, v.v... do chấp trước làm gốc. Chỉ quán các tướng như thế, chẳng quán cái khác, thứ lớp tiến tới, tướng chẳng trừ diệt, ấy gọi là Phàm Phu Sở Hành Thiền.

- Thế nào là QUÁN SÁT NGHĨA THIỀN? Nói quán nhơn (người) vô ngã, tướng cộng tướng, ngoại đạo, biết tự và tha đều vô tánh, xong quán pháp Vô Ngã, Nghĩa hành tướng của Thập Địa Bồ Tát thừa, dần dần tiến lên, gọi là Quán Sát Nghĩa Thiền.

- Thế nào là PHAN DUYÊN NHƯ THẬT THIỀN? Là nói vọng tưởng: hai thứ Vô Ngãvọng tưởng; chỗ như thật thì chẳng sanh vọng tưởng, ấy gọi là Phan Duyên Như Thật Thiền.

- Thế nào là NHƯ LAI THIỀN? Nói nhập Như Lai Địa, đắc ba thứ tướng trụ chánh định của Tự Giác Thánh Trí thì thành tựu việc bất tư nghì của chúng sanh, gọi là Như Lai Thiền.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Phàm phu sở hành thiền,

Quán sát tướng nghĩa thiền.

Phan duyên như thật thiền,

Như Lai thanh tịnh thiền.

Ví như hình nhựt nguyệt,

Bát Đầu Ma (hoa sen đỏ) trong bùn,

Như lửa diệt nơi không,

Người tu hành quán sát,

Mỗi mỗi tướng như thế,

Ngoại đạo chấp tướng thiền.

Thanh VănDuyên Giác,

Đọa nơi cảnh giới không.

Nếu xả bỏ tất cả,

Thì là Vô Sở Hữu.

Tất cả cõi chư Phật,

Dùng tay bất tư nghì,

Nhất thời xoa đầu họ,

Thuận nhập tướng Chơn Như.

Lược GIẢI :

Phàm phu thiền chỉ dứt trừ vọng tưởng, Bồ Tát thì xu hướng Chơn Như, đều chẳng phải thật trong sạch. Nếu là Như Lai Thanh Tịnh Thiền thì Thánh phàm bình đẳng, thể tự như như, dùng cái tâm chẳng sanh diệt làm nhân địa, để tu chứng thành tựu quả địa Phật. Ngoại đạo thì chấp tướng mà cầu nhập định, lúc thấy hình nhựt nguyệt sáng tỏ, hoặc thấy hoa sen mọc nơi đất bùn mà chẳng nhiễm, cho là sự chứng đắc. Thanh Văn, Duyên Giác thì chán sanh tử nên xả thân diệt trí, lần lượt diệt sạch thì đọa nơi chấp không. Đạo của ngoại đạo vì không phá ngã chấp, dù tu thiền đắc được thần thông, cũng chẳng thể ra khỏi luân hồi. Như Lai Thiền thì xa lìa tất cả. Nói VÔ SỞ HữU có nghĩ là vô sở trụ, chẳng phải chấp thật không, nên được vào tướng Chơn Như, chứng quả bất tư nghì, khởi dụng bất tư nghì. Ấy là Như Lai Thanh Tịnh Thiền vậy.

Lược giải hết

CHÁNH VĂN :

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn nói pháp NIẾT BÀN, thuyết pháp nào gọi là Niết Bàn?

Phật bảo Đại Huệ :

- Tập khí tự tánh của tất cả thức đều là pháp sanh tử, như tập khí Tạng thức (Thức thứ tám), tập khí ý (Thức thứ bảy), tập khí ý thức (Thức thứ sáu), tập khí kiến (Tiền Ngũ Thức). Nếu chuyển được các tập khí ấy, tức là chuyển sanh tử, gọi là Niết Bàn. Cái Niết Bàn của Ta và chư Phật sở thuyết, tức là cảnh giới tánh không của các pháp.

- Lại nữa, Đại Huệ! Niết Bàncảnh giới của Thánh Trí Tự Giác, lìa đoạn thường (phi đoạn phi thường), lìa vọng tưởng tánh phi tánh. Thế nào là phi thường? Là vọng tưởng của tự tướng cộng tướng đoạn dứt nên phi thường. Thế nào là phi đoạn? Nói tất cả bậc Thánh quá khứ, vị lai, hiện tại đều được tự giác nên phi đoạn. Đại Huệ! Niết Bàn bất hoại bất tử. Nếu Niết Bàn TỬ thì phải thọ sanh tương tục; nếu HOẠI, thì phải đọa tướng hữu vi. Cho nên Niết Bàn lìa hoại lìa tử, là chỗ quy y của người tu hành.

- Lại nữa, Đại Huệ! Niết Bàn phi xả phi đắc, phi đoạn phi thường, phi nhứt nghĩa, phi đa nghĩa, gọi là Niết Bàn.

- Lại nữa, Đại Huệ! Niết Bàn của Thanh Văn, Duyên Giác dựa theo khổ, không, vô thường, vô ngã, quán sát các pháp tự tướng cộng tướng vốn chẳng thật thể, quán Thập nhị nhân duyên cũng thế, đều là cảnh giới náo động, chẳng ưa thân cận, ham chỗ tịch lặng, tri kiến chẳng điên đảo thì vọng tưởng chẳng sanh. Vì họ chẳng thể chuyển Thức thành trí, trông thấy chỗ tịch lặng của Thức ấm cho là Niết Bàn, thật thì chẳng phải cứu cánh.

- Lại nữa, Đại Huệ! Có hai thứ tướng tự tánh. Thế nào là hai? 1.- Tướng chấp trước ngôn thuyết tự tánh: Là do tập khí chấp trước hư ngụy của ngôn thuyết từ vô thỉ mà sanh khởi. 2.- Tướng chấp trước sự tự tánh: Là do bất giác hiện ra ngằn mé tự tâmsanh khởi.

- Lại nữa, Đại Huệ! Như Lai dùng hai thứ thần lực kiến lập, khiến Đại Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, hỏi nghĩa và nghe pháp thọ giáo. Thế nào là hai thứ thần lực kiến lập? 1.- Là hiện thân thuyết pháp. 2.- Là vô ngôn thuyết, chỉ dùng tay quán đảnh, truyền thọ địa vị Như Lai.

- Đại Huệ! Đại Bồ Tát chứng Sơ Địa, trụ nơi thần lực của Phật, nhập Đại thừa Chiếu Minh Tam Muội. Nhập Tam Muội này rồi, thì mười phương thế giới, tất cả chư Phật dùng sức thần thông thị hiện tất cả thân diệu ngôn thuyết, như Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng, và như các Đại Bồ Tát khác đã thành tựu tướng công đức như thế. Đại Huệ, ấy gọi là Sơ Địa Bồ Tát.

- Bậc Đại Bồ Tát được thần lực Tam muội chánh thọ, là do tích chứa thiện căn từ trăm ngàn kiếp sở thành tựu. Đối trị tướng sở trị (tập khí xuất thế gian) thứ lớp tiến lên chư Địa, cho đến Pháp Vân Địa, thông đạt cứu cánh, trụ nơi cung điện Đại Liên Hoa vi diệu, ngồi tòa sư tử Đại Bửu Liên Hoa, được quyến thuộc của các Đại Bồ Tát cùng loại vây quanh, các thứ báu anh lạc trang nghiêm thân thể, như hoa Chiêm Bặc bằng vàng, như ánh sáng nhựt nguyệt. Các Bồ Tát từ mười phương đến, nơi tòa đại Liên Hoa trong cung điện mà quán đảnh, cũng như sự quán đảnh của Tự Tại Chuyển Luân Thánh VươngThái Tử Đế Thích, ấy gọi là thần lực Bồ Tát trụ nơi hai thứ thần lực, thì sẽ gặp mặt chư Phật Như Lai, nếu chẳng thế thì chẳng thể gặp.

- Lại nữa, Đại Huệ! Những pháp hạnh thần túc, tam muội, phân biệt của Đại Bồ Tát, tất cả đều trụ nơi hai thứ thần lực của Như Lai. Đại Huệ! Nếu Đại Bồ Tát lìa hai thứ thần lực Phật mà có biện tài thuyết pháp, thì tất cả phàm phu cũng phải có biện tài thuyết pháp. Tại sao? Vì chẳng cần trụ nơi thần lực mà tự có vậy.

- Đại Huệ! Khi Như Lai vào thành, hiện sức oai thần của Phật, khiến các thứ vô tình như núi đá, cây cối và nhạc cụ, thành ấp, cung điện đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống là người có tâm thức, dù mù, điếc, câm, ngọng có vô lượng khổ, đều được giải thoát. Như Laivô lượng thần lực như thế để lợi lạc chúng sanh.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Do nhân duyên nào, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác gia hộ thần lực cho bậc Bồ Tát đang trụ Tam muội chánh thọ và khi được Thắng Tiến Địa quán đảnh?

Phật bảo Đại Huệ :

- Vì lìa ma nghiệp phiền não nên chẳng đọa thiền của Thanh Văn thừa; vì đắc Như Lai Tự Giác Địa và đắc pháp tinh tấn, nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, đều dùng thần lực kiến lập chư Đại Bồ Tát. Nếu chẳng dùng thần lực kiến lập, ắt phải đọa ác kiến vọng tưởng của ngoại đạo, hoặc đọa Thanh Văn thừa, hoặc đọa hy vọng của chúng ma, chẳng thể đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó, chư Phật Như Lai đều dùng thần lực nhiếp thọ chư Đại Bồ Tát.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Thần lực của chư Phật,

Do đại nguyện trong sạch.

Quán đảnh bậc Bồ Tát,

Sơ Địa đến Thập Địa.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Phật thuyết duyên khởi tức là thuyến nhân duyên sanh, chẳng thuyết đạo do tự tâm vọng tưởng phân biệt mà sanh. Thế Tôn! Ngoại đạo cũng thuyết nhân duyên, nói vi trần sanh khởi lúc ban sơ là nhớ tánh thắng tự tại của thần ngã, các tánh khác sanh khởi cũng như thế. Nhưng Thế Tôn nói nhân duyên hay sanh ra các tánh, là dùng Hữu Gián Tất Đàn hoặc Vô Gián Tất Đàn (lý thành tựu) để giáo hóa chúng sanh.

- Thế Tôn! Ngoại đạo cũng thuyết Hữu Sanh và Vô Hữu Sanh, Thế Tôn cũng thuyết Vô Hữu Sanh, sanh rồi diệt. Như Thế Tôn sở thuyết Thập Nhị Nhân Duyên, từ vô minh duyên hành cho đến lão tử, ấy là Vô Nhân Thuyết của Thế Tôn, chẳng phải hữu nhân thuyết. Thế Tôn kiến lập cái thuyết như vậy, nói "có cái này nên có cái kia", chẳng phải kiến lập cái nghĩa tiệm sanh. Cái thuyết "Quán tánh thắng" của ngoại đạo, chẳng phải cái thuyết của Như Lai vậy? Tại sao? Vì ngoại đạo thuyết cái nhân chẳng từ duyên sanh mà có sở sanh. Nhưng Thế Tôn thì thuyết quán nhân có quả, quán quả có nhân, nói nhân duyên tạp loạn như vậy, thế thì duyên nhau đến vô cùng tận vậy.

Phật bảo Đại Huệ:

- Ta chẳng thuyết Vô Nhân và thuyết Nhân Duyên tạp loạn, cái này có nên cái kia có, và năng nhiếp sở nhiếp đều phi tánh, là giác được tự tâm hiện lượng. Đại Huệ! Nếu chấp trước năng nhiếp sở nhiếp thì chẳng giác được tự tâm hiện lượng và ngoài cảnh giới tánh phi tánh, họ có cái lỗi như thế, chẳng phải cái thuyết duyên khởi của ta. Ta thường thuyết do nhân duyên hoà hợp mà sanh các pháp, chẳng phải Vô Nhân Sanh.

Đại Huệ lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Chẳng phải ngôn thuyết hữu tánh là có tất cả tánh ư? Thế Tôn! Nếu vô tánh thì ngôn thuyết chẳng sanh, cho nên ngôn thuyết hữu tánh, nghĩa là có tất cả tánh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Vô tánh mà có ngôn thuyết, như lông rùa sừng thỏ, là hiện ngôn thuyết của thế gian. Đại Huệ! Chẳng phải tánh, chỉ là ngôn thuyết mà thôi. Như lời người nói "Ngôn thuyết hữu tánh, có tất cả tánh" đó, lập luận của ngươi ắt bị lật đổ.

- Đại Huệ! Chẳng phải tất cả quốc độ đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ là tạo tác thôi. Hoặc có cõi Phật dùng ngó nhìn để hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc nhướng mày, hoặc chớp mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc tưởng niệm, hoặc lay động, các cõi Phật ấy đều chẳng nhờ ngôn thuyếthiển bày các pháp. Đại Huệ! Như thế giới Hương Tíchquốc độ Phổ Hiền Như Lai, chỉ dùng ngó nhìn, khiến các Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp NhẫnTam Muội Thù Thắng. Cho nên chẳng phải ngôn thuyết hữu tánh là có tất cả tánh. Đại Huệ! Như ngươi đã thấy, các loại ruồi, lằn, trùn, kiến trong thế giới này, những chúng sanh ấy chẳng có ngôn thuyết cung làm xong công việc.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Như hư không sừng thỏ,

Và con của Thạch Nữ.

Không mà có ngôn thuyết,

Tánh vọng tưởng như thế.

Nhân duyên hòa hợp sanh,

Phàm phu khởi vọng tưởng.

Chẳng thể đúng như thật,

Nên luân hồi tam giới.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng : Thế Tôn! Âm thanh hiển bày nghĩa CHƠN THƯờNG ấy nương theo việc gì mà thuyết?

Phật bảo Đại Huệ :

- Vì sự mê hoặc mà thuyết. Do chúng sanh mê hoặc, nên chư Thánh thị hiện âm thanh thuyết pháp giáo hóa, gọi là Thanh Giáo, mà chẳng phải điên đảo. Đại Huệ! Như dương diệm, vòng lửa, hoa đốm, thành Càn Thát Bà, mộng huyễn, bóng trong gương v.v... là điên đảo của thế gian, chẳng phải minh trí của bậc Thánh vậy, nhưng chẳng phải không có hiện ra những việc trên.

- Đại Huệ! Bọn mê hoặc có đủ thứ vọng hiện kể trên, chẳng phải mê hoặc tạo ra vô thường. Tại sao? Vì lìa tánh phi tánh vậy. Đại Huệ! Thế nào là mê hoặc lìa tánh phi tánh? Là nói mỗi mỗi cảnh giới của tất cả phàm phu, cũng như bọn ma quỷ thấy sông Hằng là lửa, chẳng thấy nước. Tánh mê hoặc này chỉ hiện nơi ngạ quỷ mà thôi, nơi chúng sanh khác thì hiện tánh chẳng mê hoặc, chứ chẳng phải vô tánh, vì họ đều thấy nước sông Hằng vậy. Tánh mê hoặc như thế, nên bậc Thánh lìa điên đảo và bất điên đảo, do đó nói mê hoặc là thường, vì mỗi mỗi tướng đều chẳng thể hoại vậy. Đại Huệ! Chẳng phải mỗi mỗi tướng mê hoặc hoại, chỉ là tướng vọng tưởng hoại, nên nói mê hoặc là thường.

- Đại Huệ! Tại sao cho mê hoặc là chơn thật? Nếu nói theo nhân duyên, nghĩa là bậc Thánh ở nơi pháp mê hoặc, chẳng khởi cái giác tưởng điên đảo hoặc bất điên đảo. Nếu ở nơi pháp mê hoặc mà có ít phần tư tưởng thì chẳng phải Thánh Trí, vì có chút tư tưởng tức là hý luận của phàm phu, chẳng phải sự tướng của Thánh Trí vậy. Phàm nói hữu vôphàm phu vọng thuyết, chẳng phải Thánh ngôn thuyết. Kẻ mê hoặc nói điên đảo, bất điên đảo, đều thuộc vọng tưởng, y theo mê hoặcsanh khởi hai thứ chủng tánh, ấy là Thánh chủng tánh và phàm phu chủng tánh.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :

- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyênnội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.

- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.

- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.

1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.

2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.

3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.

4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.

5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.

6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.

- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả đều Vô sanh,

Cũng không nhân duyên diệt.

Ở nơi tướng sanh diệt,

Mà khởi nhân duyên tưởng.

Pháp diệt rồi lại sanh,

Do nhân duyên tương tục.

Vì đoạn dứt si mê,

Của tất cả chúng sanh.

Nên thuyết pháp duyên khởi,

Các pháp thật Vô Sanh.

Do tập khí mê hoặc,

Từ đó hiện tam giới.

Duyên thật vốn Vô Sanh,

Lại cũng chẳng có diệt.

Tất cả pháp hữu vi,

Như hoa đốm trên không.

Nếu lìa bỏ kiến chấp,

Năng nhiếp và sở nhiếp.

Chẳng có Vô nhân sanh,

Và đã sanh, sẽ sanh.

Sự sanh vốn chẳng có,

Thảy chỉ là ngôn thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22316)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16033)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15045)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18975)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14457)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18643)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13610)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11833)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13280)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13680)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13951)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13262)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16172)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11099)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16470)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11932)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17611)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12888)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13727)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12868)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14869)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16404)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13144)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12108)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12785)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12932)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12800)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14191)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14144)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16508)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12400)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14403)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11338)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11047)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13205)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13902)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13176)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13018)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13518)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12747)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10243)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13980)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10247)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13721)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16279)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11986)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11669)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12694)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10811)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11017)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10958)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11911)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12782)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11079)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12635)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11344)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant