Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Tóm lược về Căn

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16910)
6. Tóm lược về Căn

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương III

PAKI.N.NAKA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
PHẦN LINH TINH

VI. Vatthu Saṅgaho
Tóm lược về Căn

12.

Vatthusaṅgahe vatthūni nāma cakkhu sota ghāṇa jivhā kāya hadayavatthu c'āti chabbidhāni bhavanti.

Tāni kāmaloke sabbāni' pi labbhanti Rūpaloke pana ghāṇādittayaṁ natthi. Arūpaloke pana sabbāni' pi na saṁvijjanti.

Tattha pañcaviññāṇadhātuyo yathākkamaṁ ekantena pañcappasādavatthūni nissāy'eva pavattanti. Pañcadvārāvajjanasampaṭicchana- saṅkhāta pana manodhātu ca hadayaṁ nissāy'eva pavattanti. Tathā avasesā pana manoviññāṇa-dhātu-saṅkhāta ca santīraṇa-mahā-vipākapaṭigha-dvayapaṭhamamaggahasana rūpāvacaravasena hadayaṁ nissāy' eva pavattanti.

Avasesā kusalākusalakriyānuttaravasena pana nissāya vā anissāya. Āruppavipākavasena hadayaṁ anissāy' evā ti.

13.

Chavatthū nissitā kāme satta rūpe catubbidhā
Ti vatthū nissitāruppe dhātvekā nissitā matā.
Tecattāḷīsa nissāya dve cattāḷīsa jāvare
Nissāya ca anissāya pākā' ruppā anissitā'ti
Iti Abhidhammatthasaṅgahe Pakiṇṇakasaṅgaha-vibhāgo nāma Tatiyo Paric
chedo.

§12

Trong tóm lược về những căn trú (93), có sáu loại là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý.

Tất cả những loại nầy cũng vậy (94), đều nằm trong Dục Giới. Nhưng trong Sắc Giới không có ba căn -- tỷ, thiệt, và thân (95). Trong cảnh Vô Sắc Giới không có căn nào (96).

Nơi đây năm thành phần của ngũ quan thức hoàn toàn tùy thuộc nơi năm phần nhạy (97) của bộ phận tương ứng, làm căn trú cho năm thức ấy. Nhưng thành phần tâm -- tức ngũ môn hướng tâm và (hai loại) tiếp thọ tâm -- tùy thuộc nơi tâm (98) . Cùng thế ấy, những thành phần tâm còn lại (99) bao gồm (100) tâm suy đạc, tâm đại Quả, hai loại tâm (101) đồng phát sanh với sân, tâm Ðạo đầu tiên (102), tiếu sanh tâm (103), và những loại tâm thuộc Sắc Giới, tùy thuộc nơi tâm (105).
(10 + 3 + 3 + 8 + 2 + 1 + 1 + 15 = 43)

Những loại tâm còn lại (106), dầu Thiện, Bất Thiện, Hành, hoặc Siêu thế đều hoặc tùy thuộc, hoặc không tùy thuộc nơi ý căn. Những tâm Quả thuộc Vô Sắc Giới không tùy thuộc nơi ý căn.

§13

Phải nên hiểu rằng trong Dục Giới bảy thành phần (107) tùy thuộc nơi sáu căn. Trong Sắc Giới, bốn (108) tùy thuộc nơi ba (109) căn. Trong Vô Sắc Giới chỉ đơn giản có một thành phần tâm (110), không tùy thuộc nơi căn nào.

Bốn mươi ba loại tâm phát sanh tùy thuộc nơi một căn. Bốn mươi hai phát sanh không tùy thuộc, hoặc tùy thuộc nơi một căn. Những tâm Quả Vô Sắc phát sanh mà không tùy thuộc căn nào cả.

Như vậy chấm dứt chương thứ Ba của bản Vi Diệu Pháp Toát Yếu, dưới tựa đề Linh Tinh.

Chú Giải

93. Vatthu, Căn

Xuất nguyên từ căn "vas", trú ngụ.

Trong ý nghĩa đầu tiên vatthu là một khu vườn, một thửa đất, hay một lối đi. Theo nghĩa phụ thuộc, vatthu là nguyên nhân, hay điều kiện.

Danh từ vatthu cũng áp dụng cho vật gì hiện hữu, tức một thể chất, một vật, một món đồ. Khi đề cập đến ba bảo vật để tôn thờ, Ðức Phật nói: "uddesikaṁ ti avatthukaṁ". Nơi đây avatthuka có nghĩa là không có vật thể, không có một vật hay một cái gì cụ thể.

Vatthu là căn trú của giác quan.

Có sáu căn trú vật chất, hay lục căn, tương ứng với sáu giác quan.

Những căn trú nầy sẽ được mô tả với đầy đủ chi tiết trong một chương riêng biệt đề cập đến Rūpa, Sắc.

94.

Trong chữ nầy có một phần "pi" có nghĩa là "cũng". Ðoạn nầy chỉ rằng ở đây có một ngoại lệ là trường hợp của những người sanh ra bị tật nguyền như câm, điếc, mù v.v...

95.

Chúng sanh ở trong cảnh giới nầy cũng có đủ mũi, lưỡi và thân, nhưng các căn nầy không có khả năng nhạy, vì trong cảnh giới cao thượng nầy chúng sanh đã tạm thời dứt bỏ dục vọng kāmaraga, tâm đeo níu theo dục lạc. Những chúng sanh nầy có mắt và tai để dùng cho những mục tiêu cao cả, tốt đẹp. Cũng có ý căn, vì đó là căn trú của tâm.

96.

Bởi vì cảnh giới nầy không có sắc tức không có hình thức vật chất nào. Chỉ có tâm, nhưng do năng lực của Thiền cũng không cần đến ý căn.

97.

Thí dụ như nhãn thức tùy thuộc nơi phần nhạy (tức khả năng thấy) của mắt chớ không tùy thuộc nơi "con mắt bằng thịt". Các thức khác trong ngũ thức cũng tùy thuộc nơi mặt nhạy tương ứng như vậy. Mặt nhạy của năm giác quan phải được hiểu biết như sau:

Cakkhu, Nhãn, hay Nhãn Căn, có nghĩa là sự thấy, giác quan của sự thấy, con mắt. Tuy nhiên trong quyển sách nầy, "mắt" hay "nhãn" luôn luôn được xem là khả năng thấy, nhãn quan, chớ không phải "con mắt bằng thịt" (maṁsa cakkhu). Về điểm nầy Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất) có nói rằng phần nhạy của nhãn quan mà do đó ta thấy hình sắc, nhỏ và tế nhị, có thể ví như đầu con chí.

Sotappasāda, Nhĩ, hay Nhĩ Căn. Phần nhạy của tai, hay khả năng nghe. "Cái nầy nằm trong lỗ hõm của bộ phận cấu thành tai và có nhiều lông màu đỏ có hình thù như một cái bao ngón tay nhỏ (anguliveṭhana)" (Asl. 310).

Ghānappasāda, Tỷ, hay Tỷ Căn. Phần nhạy của mũi. "Cái nầy nằm bên trong lỗ hõm của mũi, có hình thù như cái móng con dê. (Asl. 310).

Jivhāppasāda, Thiệt, hay Thiệt Căn. Phần nhạy của lưỡi. "Cái nầy nằm giữa và bên trên bộ phận nếm, có hình thù như mặt trên của lá sen. (Asl. 310)

Kāyappasāda, Thân, hay Thân Căn. Phần nhạy của thân. "Trong phạm vi của thân -- bản chú giải nói như vậy (Asl. 311) -- được trải ra cùng khắp châu thân như dầu loang khắp mặt vải". -- (Buddhist Psychology, trang 173-181)

Hadayavatthu, Ý Căn. Theo các nhà chú giải, hadayavatthu (ý căn), là căn trú của tâm. Tập tục cổ truyền cho rằng bên trong lỗ hõm của trái tim có một ít máu, và ý căn tùy thuộc nơi máu nầy. Thuyết chủ trương rằng ý căn nằm trong trái tim được phổ biến mạnh mẽ vào thời Ðức Phật, và chắc chắn được sự hỗ trợ của kinh Upanishads. Ðức Phật có thể cũng theo thuyết ấy, nhưng Ngài không có lời dạy nào về điểm nầy.

Ông Aung, trong bản khái luận của ông, lý luận rằng Ðức Phật không có nói gì về điểm nầy. Ngài không quả quyết rằng ý căn là trái tim hay cân não.

Trong sách Dhammasaṅgani, danh từ hadayavatthu được gác hẳn qua một bên. Trong bộ Paṭṭhāna, thay vì dùng chữ hadaya như ý căn, Ðức Phật chỉ giản dị dạy "yam rūpaṁ nissāya" -- "tùy thuộc nơi phần sắc đó".

Theo ý kiến của Ông Aung, Ðức Phật không muốn loại bỏ một chủ thuyết được phổ biến rộng rãi thời bấy giờ. Ngài cũng không nêu lên một thuyết mới nói rằng ý căn là cân não như các nhà khoa học hiện đại. (Xem Buddhist Psychology -- Introduction I xxviii, và Compendium of Philosophy, trang 277-279)

99. Dhātu, Giới

Xuất nguyên từ căn "dhar", nắm giữ lại, mang theo.

"Cái gì mang theo dấu hiệu của chính mình là dhātu". Ðược gọi như vậy bởi vì tự nó không có hiện hữu, hay không có sự sống (nissatta nijjīva).

Ðể tiện việc phân biệt, có ba danh từ được dùng ở đây. Ðó là pañcaviññāṇadhātu, manodhātu, và mano-viññāṇa-dhātu.

- Pañca-viññāṇa-dhātu, ngũ thức giới, áp dụng cho cặp ngũ quan thức hay ngũ song thức.

- Mano-dhātu, ý giới, áp dụng cho hai loại, tiếp thọ tâm và ngũ môn hướng tâm (sampaṭicchana và pañcadvārāvajjana).

- Mano-viññāṇa-dhātu, ý thức giới, được áp dụng cho tất cả những loại tâm còn lại.

100.

Ba loại tâm suy đạc và tám loại tâm Ðại Quả không phát sanh trong cảnh Vô Sắc Giới vì ở cảnh nầy không có căn môn để phát sanh xuyên qua đó, cũng không có tác dụng.

101.

Bởi vì trong cảnh Sắc GiớiVô Sắc Giới chúng sanh đã chế ngự tâm sân nên hai loại tâm đồng phát sanh với sân không có ở cảnh nói trên.

102.

Muốn chứng đắc tầng Thánh đầu tiên phải có nghe người khác dạy (paratoghosappaccaya).

103.

Tiếu sanh tâm (tâm làm mĩm cười) không thể phát sanh khi không có cơ thể vật chất. Chỉ ở cảnh người chư Phật Toàn Giác và chư Phật Ðộc Giác mới có loại tâm nầy.

104.

Không có tâm Thiền Sắc Giới phát sanh trong cảnh Vô Sắc Giới vì những vị tái sanh vào cảnh nầy đã chế ngự mọi ham muốn vật chất (rūpa).

105.

Tất cả 43 loại tâm kể trên đều tùy thuộc nơi hadayavatthu (ý căn).
(10 + 3 + 3 + 8 + 2 + 1 + 1 + 15= 43)

106.

Ðó là 8 tâm đẹp (tịnh hảo) thiện, 4 tâm thiện Sắc Giới, 10 tâm bất thiện, 1 ý môn hướng tâm, 8 tâm đẹp hành, 4 tâm hành Vô Sắc Giới, 7 tâm Siêu Thế = 42.

Các loại tâm nầy có thể phát sanh trong những cảnh giớichúng sanh có đủ năm uẩn, hoặc trong những cảnh giớichúng sanh chỉ có bốn uẩn (Vô Sắc Giới).

107.

Ðó là 5 pañcaviññāṇadhātu (ngũ thức giới) + 1 manodhātu (ý giới) + 1 manoviññāṇadhātu (ý thức giới) = 7

108.

Ðó là 1 nhãn thức, 1 nhĩ thức, 1 ý giới (manodhātu), 1 ý thức giới (manoviññāṇadhātu) = 4.

109.

Ðó là nhãn, nhĩ, và ý căn.

110.

Dhātu + eka = Dhātv'eka. Danh từ nầy hàm xúc ý nghĩa manoviññāṇadhātu (ý thức giới).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49718)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34613)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33435)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43904)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57034)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47541)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38460)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36588)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32230)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40440)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43464)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46697)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36170)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28683)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29215)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31876)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28797)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33346)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29114)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60968)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39722)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26648)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29641)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37347)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40073)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26825)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42633)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28276)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26179)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34607)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30456)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28548)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21836)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51274)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28605)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24343)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27450)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27681)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35416)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27431)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29996)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31757)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23001)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant