Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15841)
1. Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương VIII

PACCAYA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
Toát yếu về những duyên hệ

Nhập Ðề

1.

Yesaṁ saṅkhatadhammānaṁ ye dhammā paccayā yathā
Taṁ vibhāgam' ih'edāni pavakkhāmi yathārahaṁ.

2.

Paṭiccasamuppādanayo, Paṭṭhānanayo ca'ti paccayasaṅgaho duvidho veditabbo.

Tattha tabbhāvabhāvibhāvākāramattopalakkhito paṭiccasamuppādanayo.

Paṭṭhānanayo pana āhaccapaccayaṭṭhitim' ārabbha pavuccati. Ubhayaṁ pana vomissetvā papañcenti ācariyā.

Tattha avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṁ, viññāṇa-paccayā nāmarūpam, nāmarūpa-paccayā saḷāyatanaṁ, saḷāyatana-paccayā phasso, phassa-paccayā vedanā, vedanā-paccayā taṇhā, taṇhā-paccayā upādānam, upādāna-paccayā bhavo, bhava-paccayā jāti, jāti-paccayā jarā-maraṇa-soka-parideva-dukkha-doma- nass' upāyāsā sambhavanti. Evam'etassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī' ti ayam'ettha paṭiccasamuppādanayo.

Tattha tayo addhā; dvādasaṅgāni; vīsatākārā; tisandhi; catusaṅkhepo; tīṇi vaṭṭāni; dve mūlāni ca veditabbāni.

Katham?

Avijjā, saṅkhārā atīto addhā; jāti, jarā, maraṇaṁ anāgato addhā; majjhe aṭṭha paccuppanne addhā'ti tayo addhā.

Avijjā, saṅkhārā, viññāṇaṁ, nāmarūpaṁ, saḷāyata- naṁ, phasso, vedanā, taṇhā, upādānaṁ, bhavo, jāti, jarāmaraṇan'ti dvādasaṅgāni. Sokādivacanaṁ pan'ettha nissandaphalanidassanaṁ.

Avijjāsaṅkhārāggahaṇena pan'ettha taṇhūpādāna-bhavā pi gahitā bhavanti. Tathā taṇh'ūpādānabhavagga- haṇena ca avijjāsaṅkhārā, jātijarāmaraṇaggahaṇena ca viññāṇādiphalapañcakam'eva gahitanti katvā.

Atīte hetavo pañca idāni phalapañcakaṁ
Idāni hetavo pañca āyatiṁ phalapañcakanti
Vīsatākārā, tisandhi, catusaṅkhepā ca bhavanti.

Avijjā taṇhūpādāna ca kilesavaṭṭaṁ; kammabhava- saṅkhāto bhav'ekadeso; saṅkhārā ca kammavaṭṭaṁ; upapattibhavasaṅkhāto bhav' ekadeso; avasesā ca vipāka- vaṭṭanti tīni vaṭṭāni.

Avijjātaṇhāvasena dve mūlāni ca veditabbāni.

1. Tesameva ca mūlānaṁ nirodhena nirujjhati
Jārāmaraṇamucchāya pīḷitānam' abhiṇhaso
Āsavānaṁ samuppādā avijjā ca pavattati.

2. Vaṭṭamābandham' iccevaṁ tebhūmakam' anādikaṁ
Paṭiccasamuppādo'ti paṭṭhapesi mahāmuni.

§1.

Nơi đây, theo đường lối thích nghi, tôi sẽ tỉ mỉ phân tách bằng cách nào những pháp tạo duyên tác hành liên hệ với các pháp được cấu tạo (1) tùy duyên.

§2.

Ðại cương những tương quan có hai phần;

A) Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc (2), và
B) Ðịnh Luật Duyên Hệ Tương Quan (3).

Trong hai phần nầy, Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Duyên Khởi, được đánh dấu bằng sự phát sanh suông của một trạng thái, tùy thuộc nơi một trạng thái khác trước đó (4). Khi có trạng thái nầy thì trạng thái kia khởi phát.

Ðịnh Luật Duyên Hệ Tương Quan đề cập đến sự hiện hữu của những điều kiện liên hệ với một điều kiện khác.

Các vị Pháp Sư pha trộn lẫn lộn hai pháp nầy để giải thích.

Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh

Nơi đây:

Tùy thuộc nơi Vô Minh (5), Hành (6). phát sanh.
Tùy thuộc nơi Hành, Thức (tái sanh) (7). phát sanh.
Tùy thuộc nơi Thức (tái sanh), Danh và Sắc (8) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Danh và Sắc, Lục Căn (9) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Lục Căn, Xúc (10) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (11) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Thọ, Ái (12) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Ái, Thủ (13) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (14) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Hữu, Sanh (15) phát sanh.
Tùy thuộc nơi Sanh, phát sanh Lão, Tử, Sầu Muộn, Ta Thán, Ðau Khổ, Buồn RầuThất Vọng.

Như vậy phát sanh trọn vẹn toàn khối đau khổ.

Nơi đây, đó là Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh. Nên hiểu rằng có ba thời kỳ, mười hai chi (yếu tố), hai mươi phương cách, chia làm bốn nhóm, ba sự liên hệ, bốn phân hạng, ba vòng quanh, và hai nhân.

Như thế nào? Vô Minh và Hành thuộc về quá khứ; Sanh, Lão, Tử thuộc về vị lai; tám chi ở khoảng giữa thuộc về hiện tại. Như vậy có ba thời kỳ.

Vô Minh, Hành (thiện và bất thiện), Thức (tái sanh), Danh-Sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ. ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão, và Tử là mười hai chi (yếu tố). Những danh từ Sầu Muộn, Ta Thán v.v... là hậu quả của Sanh.

Nơi đây, khi đề cập đến Vô Minh và Hành, thì ái, Thủ và Hữu cũng được bao hàm trong đó. Cùng thế ấy, khi đề cập đến ái, Thủ, và Hữu thì Vô Minh và Hành cũng được bao hàm trong đó. Khi đề cập đến Sanh, Lão và Tử thì năm hậu quả cùng với những loại tâm của nó cũng được bao hàm trong đó.

Như vậy có:

1. năm nhân thuộc về quá khứ, và 2. năm quả trong hiện tại;
3. năm nhân trong hiện tại và 4. năm quả thuộc vị lai.

Có hai mươi phương cách, ba mối liên hệ, và bốn phân hạng.

Ba Vòng Quanh luân chuyển là:

1. Vô Minh, ái, và Thủ thuộc về Vòng Quanh của những ô nhiễm.
2. Một phần của sự trở thành (bhava, hữu) được biết là những hành động và những sinh hoạt tâm linh (thiện và bất thiện) trong hiện tại (bhava), là Vòng Quanh của Nghiệp.
3. Một phần của sự trở thành (hữu) được biết là kiếp sống mới (upapattibhava), và phần còn lại thuộc về Vòng Quanh của Quả.

Vô minhái dục phải được hiểu là hai nhân (16).

Tóm lược

Bằng cách tận diệt những nhân nầy Vòng Quanh luân chuyển chấm dứt.

Vô minh, xuất phát từ những nhiễm ô (17), tăng trưởng trong sự áp bức càng lúc càng gia tăng của trạng thái già và chết.

Bậc Ðại Hiền Trí đã giải thích tình trạng rối răm của những kiếp sống vô cùng tận trong tam giới như thế ấy, bằng "Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh".

Chú Giải

1. Saṅkhatadhammānaṁ, Các Pháp Ðược Cấu Tạo.

Cũng được gọi "Pháp Hữu Vi", là những pháp không tự mình hiện hữu mà phát sanh tùy thuộc điều kiện. Ðó là tất cả tâm vương, tâm sởsắc pháp, được mô tả trong những chương trước.

2. Paṭiccasamuppāda [*], Pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Duyên Khởi.

Paṭicca = bởi vì, vì lẽ; samuppāda = phát sanh, xuất phát. Theo nghĩa đen thì danh từ nầy hàm ý "phát sanh bởi vì", hoặc "tùy thuộc phát sanh", hay "duyên khởi tùy thuộc", và ý nghĩa nầy áp dụng cho toàn thể công thức, vốn bao gồm mười hai nhân và quả liên quan với nhau, gọi là paccaya và paccayuppanna.

S.Z. Aung phiên dịch danh từ Paṭiccasamuppādanaya là "Ðịnh Luật khởi phát do nguyên nhân".

Trong chương nầy Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc không pha trộn với Paṭṭhānanaya như trong sách Thanh Tịnh Ðạo, Visuddhimagga.

[*] Ðể có thêm chi tiết xem "The Buddha and His Teachings", bản dịch ra Việt ngữ là "Ðức Phật và Phật Pháp", chương 25.

3. Paṭṭhānanaya

Theo các Bản Chú Giải Tích Lan, nơi đây tiếp đầu ngữ "pa" có nghĩa "khác nhau" (nānappakāra). Ngài Ledi Sayadaw nói là "chánh yếu" (padhāna). Thāna (theo nghĩa đen là trạm) có nghĩa là "duyên" (paccaya) như trong chữ upakāradhamma -- là những điều kiện hỗ trợ hay giúp đỡ. Những điều kiện khác nhau hay những duyên chánh yếu ấy được mô tả với nhiều chi tiết trong bộ Paṭṭhānapakaraṇa (Phát Thú), quyển thứ bảy của Abhidhamma-Pitaka (Tạng Luận). Hệ thống giảng giải trong bản khái luận nầy được gọi là Paṭṭhānanaya.

Sự khác biệt giữa hai định lý (naya) nầy phải được hiểu như sau:

1. Bởi vì có A nên B phát sanh. Bởi vì có B nên C phát sanh. Khi không có A thì không có B. Khi không có B thì không có C.

2. Nói cách khác, "cái nầy như vầy, ắt có cái kia hiện hữu", "cái nầy không như vầy, ắt cái kia không hiện hữu" (imasmiṁ sati, idaṁ hoti; imasmiṁ asati, idaṁ na hoti). Ðó là Paṭiccasamuppādanaya, định lý của pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Duyên Khởi, cũng gọi là pháp Thập Nhị Nhân Duyên.

3. Khi nói rằng A duyên hệ với B bằng cách "cùng tồn tại chung", "tương quan tùy thuộc lẫn nhau", là ta có một thí dụ của Paṭṭhānanaya, định lý "Duyên Hệ Tương Quan".

(Journal of the Pāli Text Society, 1915, 1916. Trang 21-53).

4. Tabbhāvabhāvībhāvākāramatta

Bhāvākāramatta = sự phát sanh suông của một trạng thái; tabbhāvabhāvi = tùy thuộc nơi trạng thái trước kế đó.

5. Avijjā, Vô Minh.

Theo nghĩa đen là sự "không-biết", tức không biết Tứ Diệu Ðế. Danh từ avijjā cũng được giải thích là "cái gì làm nguyên nhân cho chúng sanh mãi mãi lăn trôi theo vòng luân hồi vô tận" (anṭavirahite saṁsāre satte javāpeti). "Cái gì do đó quả trổ sanh" được gọi là paccaya. Khi vô minh được tận diệt và trở thành minh, sự hiểu biết sáng suốt, thì tất cả những nguyên nhân đều tan biến, như trường hợp chư Phật và chư vị A La Hán.

6. Saṅkhāra, Hành.

Saṅkhārā là một danh từ có nhiều ý nghĩa phải được hiểu biết tùy theo đoạn văn. Nơi đây Saṅkhārā, Hành, là tác ý (cetanā) bất thiện (akusala), thiện (kusala), và bất động (āneñjā, không lay chuyển), vốn tạo Nghiệp (Kamma) đưa đến tái sanh.

Tác ý bất thiện gồm tất cả những tác ý trong 12 loại tâm bất thiện; tác ý thiện gồm những tác ý trong 8 loại tâm Ðẹp (kusala, thiện) thuộc Dục Giới (kāmāvacara kusala citttāni) và 5 loại tâm Thiền thiện thuộc Sắc Giới (kusala Rūpajhāna); tác ý bất động gồm tất cả những tác ý trong 4 loại tâm Thiền thiện thuộc Vô Sắc Giới (kusala Arūpajhāna). Trong tiếng Anh không có một danh từ nào chính xác tương đương với Phạn ngữ nầy. Saṅkhāra (Hành), một trong năm uẩn, là danh từ gọi chung 50 tâm sở, ngoại trừ hai tâm sở thọ và tưởng.

Tác ý của bốn lokuttaramaggacitta, tâm Ðạo Siêu Thế, không được xem là saṅkhārā, hành, vì có chiều hướng loại trừ vô minh. Trí tuệ (paññā) là yếu tố nổi bật trong những loại tâm siêu thế, trong khi tác ý (cetanā) là yếu tố nổi bật trong các loại tâm tại thế.

Vô minhyếu tố nổi bật trong những loại tâm bất thiện trong khi đó cũng ngủ ngầm trong các loại tâm thiện. Do đó cả hai -- hành động thiện và hành động bất thiện -- đều được xem là bắt nguồn từ vô minh.

7. Viññāṇa, Thức.

Một cách chính xác, thức ở đây là 19 loại tâm của thức-tái-sanh (paṭisandhi viññāṇa) được mô tả trong chuơng V. Tất cả 32 loại tâm quả (vipākacitta) được chứng nghiệm trong đời sống cũng được bao gồm trong đó.

Bào thai trong bụng mẹ được cấu thành do sự phối hợp của thức-tái-sanh, cùng với tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Trong thức nầy ngủ ngầm tất cả những cảm thọ, những đặc tính, và những chiều hướng tâm tánh của một cá nhân, huân tập từ quá khứ xa xôi trong luồng nghiệp.

Thức-tái-sanh nầy được xem là 'sáng tỏ" (pabhassara) vì không liên hợp với những căn bất thiện tham, sân, si (như trong trường hợp những tâm quả vô nhân, ahetukavipāka), hoặc đồng phát sanh cùng những căn thiện (như trường hợp các loại tâm quả hữu nhân).

8. Nāmarūpa, Danh-Sắc.

Danh từ kép nầy phải được hiểu riêng rẽ, nāma riêng, rūpa riêng, và nāmarūpa cùng chung một chữ. Trường hợp ở cảnh Vô Sắc Giới (arūpa) thì chỉ có danh; trường hợp cảnh Vô Tưởng (asañña), chỉ có sắc; trong trường hợpDục Giới (kāma) và Sắc Giới (rūpa), thì có cả hai, danh và sắc.

Danh (nāma) ở đây có nghĩa là ba uẩn -- thọ (vedanā), tưởng (saññā), và hành (saṅkhāra) -- phát sanh cùng một lúc với thức-tái-sanh. Rūpa, sắc, có nghĩa là ba thành-phần [1] thân, bhāvavatthu -- cũng khởi phát cùng lúc với thức-tái-sanh, do nghiệp quá khứ tạo duyên. Yếu tố thứ nhì và thứ ba thuộc về quá khứhiện tại. Yếu tố thứ ba và thứ tư trái lại, đồng thời trong hiện tại.

9. Salāyatana, Lục Căn.

Trong thời kỳ thai nghén của bà mẹ, lục căn tuần tự tiến triển từ những hiện tượng tâm lý trong đó có ngủ ngầm tiềm năng vô cùng tận. Ðốm nhỏ không quan trọng vô cùng vi tế ấy giờ đây phát triển dần và trở thành guồng máy sáu giác quan phức tạp tác hành gần như tự động, không cần bộ phận nào khác, như một linh hồn, điều khiển. Sáu giác quan, hay lục căn, là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Năm giác quan đầu là năm phần nhạy -- nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân -- dần dần mở mang theo thời gian. Ý căn đã được đề cập đến trong một phần trước.

10. Phassa, Xúc

Xem chương I và chương II

11. Vedanā, Thọ.

Cũng xem chương I và chương II

12. Taṇhā, ái.

ái có ba là: ái duyên theo nhục dục ngũ trần (kāmataṇhā); ái duyên theo dục lạc liên hợp với thường kiến (bhavataṇhā), tức trong khi thỏa thích, có ý nghĩ rằng những dục lạc nầy là thường còn, tồn tại mãi mãi không hư hoại; và ái duyên theo dục lạc liên hợp với đoạn kiến (vibhavataṇhā), tức trong lúc thỏa mãn dục vọng nghĩ rằng tất cả đều chấm dứt sau khi chết. Ðây là quan điểm của người sống theo thuyết duy vật.

Bhavataṇhā và Vibhavataṇhā cũng đuợc chú giảiluyến ái duyên theo cảnh Sắc Giớiluyến ái theo cảnh Vô Sắc Giới. Thông thường hai danh từ nầy được hiểu là ái dục trong trạng thái sinh tồnái dục trong sự không-sinh-tồn.

Có sáu loại ái dục duyên theo 6 trần cảnh như sắc, thinh v.v... Sáu loại nầy trở thành 12 nếu cộng với sáu căn môn như nhãn, nhĩ v.v... và 36 nếu tính luôn quá khứ, hiện tạivị lai. Nếu nhân luôn cho ba loại ái dục kể trên thì có tất cả là 108.

13. Upādāna, Thủ

Danh từ nầy xuất nguyên từ "upa" + "ā" + căn "da", có nghĩa cho ra. Upādāna, Thủ, là ái dục ở mức cao độ, mãnh liệt tham ái và chặt chẽ nắm giữ lại. Taṇhā, ái dục, giống như tên trộm rình mò trong đêm tối để lấy trộm một vật. Upādāna, Thủ, là chính hành động lấy trộm. Thủ là hậu quả của luyến áilầm lạc. Thủ đưa đến quan kiến sai lầm về "Ta" và "Của Ta".

14. Bhava, Hữu.

Theo nghĩa đen, bhava là trở thành, và được giải thích là cả hai, hành động tạo Nghiệp, Kamma (kamma-bhava), thiện và bất thiện -- tiến trình tích cực của sự trở thành -- và những cảnh giới sinh tồn khác nhau (upapatti- bhava) -- tiến trình tiêu cực của sự trở thành.

Giữa hai danh từ Saṅkhārā, Hành, và Kammabhava, Hữu, chỉ có sự khác biệt là "hành" được dùng theo nghĩa "nghiệp được tạo nên trong quá khứ" và "hữu" là "nghiệp tạo trong hiện tại". Chỉ có bhava, hữu, tức nghiệp hiện tại tạo duyên cho sự tái sanh tương lai.

15. Jāti, Sanh

Một cách chính xác jāti, là sự khởi sanh của năm uẩn (khandhānaṁ pātubhāvo).

16.

Vô Minh là nhân quá khứ tạo duyên cho hiện tại, và ái Dục là nhân trong hiện tại tạo duyên cho tương lai.

17. Āsava, Hoặc Lậu.

Hoặc Lậu hay những ô nhiễm tiềm tàng ngủ ngầm trong tất cả mọi chúng sanh còn trong tam giới, được xem là nguyên nhân đưa đến vô minh.

Ghi chú:

[1] Mười thành-phần-thân (kāyadasaka) gồm bốn nguyên tố: i. nguyên tố duỗi ra (paṭhavi), ii. nguyên tố làm dính liền (āpo), iii. nguyên tố nóng (tejo), iv. nguyên tố di chuyển (vayo), cùng với bốn chuyển hóa của nó (upādārūpa) là: v. màu (vaṇṇa), vi. mùi (gandha), vii. vị (rasa), viii. tinh chất dinh dưỡng (oja), và cùng với ix. mạng căn (jīvitindriya), x. thân (kāya).

Mười thành-phần-tánh nam hay nữ (bhāvadasaka) và mười thành-phần căn môn (vatthudasaka) cũng bao gồm theo thứ tự, chín yếu tố đầu rồi yếu tố thứ mười là tánh (nam hay nữ) và căn môn.

Như vậy ta thấy hiển nhiên rằng tánh nam hay nữ của một người đã được nghiệp quá khứ quyết định ngay vào lúc bà mẹ thọ thai.

Nơi đây kāya, thân, có nghĩa là phần nhạy của thân. Tánh nam hay nữ không phát triển vào lúc được thọ thai nhưng tiềm tàng ngủ ngầm. Không phải trái tim hay cân não -- được giả tưởng là ý căn, căn môn của tâm -- phát triển, mà tiềm năng phát triển của căn vẫn ngủ ngầm.

-ooOoo-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19673)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23931)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41176)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19659)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23944)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21732)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27476)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26523)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29283)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33148)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20169)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25725)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20884)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31260)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38508)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21400)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44211)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29788)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42132)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22112)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32068)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23935)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24348)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33876)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21032)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28826)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21534)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28000)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22046)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20593)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23620)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33141)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31814)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39587)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22349)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29106)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22537)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24533)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant