Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Bốn Mươi Hai Chương

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 19709)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG


Hán dịch: Ca-Diếp Ma-Đằng và Trúc-Pháp Lan đời Hậu-Hán đồng dịch.

Việt-dịch: Thích Tâm Châu

Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”.

Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.

Trong vườn Lộc-giả, Ngài quay bánh xe pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị đồng tu như Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v..., chứng được đạo-quả.

Lại có các vị Tỳ-Khưu nói lên những điều ngờ vực của mình, xin Phật chỉ dạy cho điều gì nên tiến và điều gì nên ngưng.

Đức Thế-Tôn dạy bảo, ai cũng đều khai-ngộ. Các vị chắp tay, kính vâng và thuận theo lời Ngài chỉ dạy.

 

CHƯƠNG THỨ NHẤT:
XUẤT-GIA, CHỨNG QUẢ

Phật dạy: “Từ-biệt người thân đi xuất-gia, nhận-thức được tâm, thấu - suốt được cội gốc và hiểu rõ được pháp vô-vi, mới gọi là “Sa - môn”. Vị Sa - môn thường giữ hai trăm năm mươi giới, khi tiến, khi ngưng, đều ở trong niệm thanh- tịnh và thực-hành đạo-hạnh của bốn chân-đế, để thành bốn Thánh-quả như bậc A-La-Hán v.v...

A-La-Hán (Arahat) là vị tu-chứng có thể phi-hành, biến-hóa, kéo dài thọ - mệnh nhiều kiếp và khi an-trụ có thể làm rung-chuyển trời đất.

Thứ đến, A-Na-Hàm (Angàmi). A-Na-Hàm là vị tu-chứng, sau khi mất, linh-thần sinh lên cõi trời thứ mười chín, chứng quả A -La-Hán.

Thứ đến, Tư-Đà-Hàm (Sakrdàgàmi). Tư-Đà-Hàm là vị tu - chứng, chỉ còn một lần sinh lên cõi trờimột lần trở lại cõi người trong Dục-giới là chứng được quả A-La-Hán.
Thứ nữa là Tu-Đà-Hoàn (Sotàpanna-phala). Tu-Đà-Hoàn là vị tu-chứng còn phải bảy lần sinh, bảy lần tử nữa, mới chứng được quả A- La -Hán.

Chặt đứt ái-dục như chặt tứ chi, không dùng gì nữa, (tức là vượt khỏi luân-hồi)!”.

 

CHƯƠNG THỨ HAI:
ĐOẠN DỤC TUYỆT CHỨNG

Phật dạy: “Bậc Sa-môn xuất-gia, dứt tham-dục, bỏ ái-nhiễm, biết nguồn tâm của mình, suốt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô-vi; bên trong, không có chỗ nào gọi là chứng-đắc bên ngoài, không có chỗ nào gọi là cầu được; tâm không hệ - thuộc với đạo và cũng không kết nghiệp, không suy-niệm, không tạo-tác, chẳng phải tu, chẳng phải chứng, không trải qua các quả-vị mà tự thể - nhập diệu - quả cao thượng, đó gọi là “đạo”.

 

CHƯƠNG THỨ BA:
CẮT ÁI BỎ THAM

Phật dạy: “Cắt bỏ râu tóc, làm bậc Sa-Môn lĩnh-thụ đạo - pháp, bỏ của cải thế-gian, cầu xin lấy đủ: giữa ngày một bữa ăn, một giấc ngủ dưới gốc cây, và thận-trọng, không dám ham muốn đến hai lần. Vì, ái và dục làm cho người ta ngu-mê vậy”.

 

CHƯƠNG THỨ TƯ:
THIỆN, ÁC ĐỀU RÕ

Phật dạy: “Chúng-sinh lấy mười việc làm thiện và, cũng lấy mười việc làm ác. Những gì là mười? - Thân ba việc. Miệng bốn việc. Ý ba việc. Ba việc của thân là: sát, đạo, dâm. Bốn việc của miệng là: hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và nói thêu-dệt. Ba việc của ý là: tham, sân, si.

Mười việc như thế không thuận Thánh-đạo, gọi là mười hạnh ác. Việc ác ấy nếu ngưng-chỉ, thì gọi là mười hạnh thiện”.

 

CHƯƠNG THỨ NĂM:
CHUYỂN NẶNG THÀNH NHẸ

Phật dạy: “Người ta có những tội lỗi mà không biết tự-hối, sớm dứt tâm tội-lỗi ấy đi, thì tội lỗi sẽ tới mình, như nước chảy về biển, dần dần thành sâu rộng. Nếu người ta có tội-lỗi, tự biết là trái, đổi ác làm lành tội tự tiêu-diệt, như người đau, được mồ-hôi xuất ra, dần dần được giảm bớt”.

 

CHƯƠNG THỨ SÁU:
NHẪN ÁC KHÔNG GIẬN

Phật dạy: “Người ác nghe có người nào làm thiện, cố ý tới làm nhiễu - loạn. Trường hợp ấy, ông nên tự ngăn cấm, không nên giận trách. Người kia đem điều ác tới, họ tự vời lấy điều ác”.

 

CHƯƠNG THỨ BẢY:
ÁC LẠI BẢN THÂN

Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo, làm việc rất nhân-từ, cố ý tới nhục - mạ Phật. Phật im lặng không đối đáp. Người mạ-nhục ấy ngưng, Đức Phật hỏi: “Ông đem lễ biếu người nào đó, người ấy không nhận, lễ ấy, ông đem về chứ?” Người kia đáp: “Tôi đem về!”.

Phật dạy: “Nay ông mạ-nhục tôi, tôi không nhận, ông tự mang lấy tai - họa, nó quay về thân ông. Việc làm ấy, như vang ứng tiếng, bóng theo hình, hoàn toàn không tránh khỏi được. Vậy, cẩn-thận chớ làm điều ác”.

 

CHƯƠNG THỨ TÁM:
TUNG, NHỔ TỰ-NHƠ

Phật dạy: “Người ác hại người hiền, như ngửa mặt lên trời mà nhổ, nước bọt, nhổ không đến trời, lại rớt xuống mình; ngược gió tung bụi, bụi không bay tới người kia, bụi cuộn lại mình. Người hiền không thể hủy hoại được mà tai - họa quyết sẽ làm hoại diệt mình”.

 

CHƯƠNG THỨ CHÍN:
VỀ GỐC GẶP ĐẠO

Phật dạy: “Yêu đạo bằng cách nghe nhiều thì đạo khó gặp được. Giữ chí bền chắc, vâng làm theo đạo, đạo ấy rất lớn”.

 

CHƯƠNG THỨ MƯỜI:
HỶ-THÍ ĐƯỢC PHÚC

Phật dạy: “Thấy người ta làm đạo bố thí giúp đỡ người ta bằng sự hoan - hỷ, được phúc rất lớn”.
Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, phúc ấy có hết không?”

Phật dạy: “Như lửa của một bó đuốc, vài ngàn trăm người, đều đem đuốc đến lấy lửa, lấy về, nấu cơm chín, trừ nhà tối, mà lửa của bó đuốc ấy vẫn như cũ. Việc được phúc cũng thế”.

 

CHƯƠNG MƯỜI MỘT:
CÚNG CƠM DẦN HƠN

Phật dạy: “Cho cơm một trăm người ác, không bằng đãi cơm một người thiện. Đãi cơm ngàn người thiện, không bằng đãi cơm một người giữ ngũ giới; đãi cơm vạn người giữ ngũ giới, không bằng cúng cơm một vị Tu - đà-hoàn; cúng cơm một trăm vạn vị Tu-đà-hoàn không bằng cúng cơm một vị Tư-đà - hàm; cúng cơm một ngàn vạn vị Tư-đà-hàm, không bằng cúng cơm một vị A -na- hàm; cúng cơm một ức vị A-na-hàm, không bằng cúng cơm một vị A-La-Hán; cúng cơm mười ức vị A-La-Hán, không bằng cúng cơm một vị Bích - chi-phật; cúng cơm trăm ức vị Bích-chi-phật, không bằng cúng cơm một vị trong tam thế chư Phật; cúng cơm ngàn ức vị trong tam thế chư Phật, không bằng cúng cơm một vị Vô-Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng”.

 

CHƯƠNG MƯỜI HAI:
KHÓ, KHUYÊN GẮNG TU

Phật dạy: “Người ta có hai mươi việc khó: “Bần-cùng, bố-thí, khó. Sang - trọng, học đạo, khó. Bỏ mạng, quyết chết (cho chính-đạo), khó. Được thấy kinh Phật, khó. Sinh gặp đời Phật, khó. Nhẫn sắc, nhẫn dục, khó. Thấy tốt, không cầu, khó. Bị nhục, không giận, khó. Có thế không màng, khó. Chạm việc, vô tâm, khó. Học rộng, xét sâu, khó. Trừ-diệt ngã-mạn, khó. Không khinh người chưa học, khó. Tâm làm việc bình-đẳng, khó. Không nói thị-phi, khó. Gặp bậc thiện-tri-thức, khó. Học đạo, kiến tính, khó. Tùy căn-cơ mà hóa-độ người, khó. Thấy cảnh không động, khó. Khéo giải những phương tiện, khó.”

 

CHƯƠNG MƯỜI BA:
HỎI VỀ TÚC-MỆNH

Có một vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn bởi nhân-duyên gì mà biết được thân-mệnh của kiếp trước và biết được chí-đạo?”
Phật dạy: “Tâm trong-sạch, chí vững-bền có thể biết được chí - đạo. Ví như, lau gương bụi sạch đi thì sáng còn lại. Dứt ham muốn, không tìm cầu, sẽ biết được thân-mệnh của kiếp trước”.

 

CHƯƠNG MƯỜI BỐN:
HỎI VỀ THIỆN, ĐẠI

Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, gì là “thiện”? Gì là “tối đại” (rất lớn)?
Phật dạy: “Hành đạo, giữ được lẽ chân-thực là “thiện”, chí và đạo hợp là “đại”.

 

CHƯƠNG MƯỜI LĂM:
HỎI VỀ LỰC, MINH

Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, gì là “đa lực” (nhiều nghị-lực)? Gì là “tối minh” (rất sáng)?
Phật dạy: “Nhẫn-nhục đa lực (nhiều nghị lực), vì không ôm-ấp những điều ác, có thêm sự an vui, khang-kiện. Người chịu nhẫn-nhục, không làm điều ác, quyết được người ta tôn-kính. Tâm nhơ diệt hết, trong sạch không còn chút vết uế-nhiễm, đó là “tối minh” (rất sáng). Kể từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay, những gì sở-hữu trong mười phương, không có gì là không thấy, không có gì là không biết, không có gì là không nghe, được “nhất-thiết-trí”, đáng gọi là “minh” vậy.

 

CHƯƠNG MƯỜI SÁU:
XẢ ÁI ĐẮC ĐẠO

Phật dạy: “Người ta ôm-ấp tâm ái-dục, sẽ không thấy được đạo. Ví như nước lắng, thò tay khuấy lên, mọi người tới xem, soi hình vào nước, đều không trông thấy bóng-dáng của mình. Người ta đem ái-dục giao xen lẫn nhau, thì vẩn đục trong tâm nổi lên, nên không thấy được đạo. Sa-Môn các ông, nên bỏ ái - dục. Cấu-nhiễm của ái-dục hết, thì đạo có thể thấy được”.

 

CHƯƠNG MƯỜI BẢY:
SÁNG LẠI, TỐI RỜI

Phật dạy: “Người thấy được đạo, ví như người cầm bó đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất, mà chỉ còn có ánh sáng. Người học đạo thấy chân - đế, vô minh liền diệt, mà chỉ “minh” (ánh sáng) thường còn”.

 

CHƯƠNG MƯỜI TÁM:
NIỆM... VỐN KHÔNG

Phật dạy: “Giáo-pháp của ta, tuy niệm nhưng không chấp niệm, phi- niệm, hành nhưng không chấp hành, phi-hành; ngôn nhưng không chấp ngôn, phi - ngôn; Tu nhưng không chấp tu, phi-tu. Người hiểu được thì được gần đạo, mà người mê thì bị xa đạo vậy! Đường ngôn-ngữ dứt, không thể bị bó - buộc bởi sự-vật. Thế nhưng, sai đi hào-ly thì mất đi trong giây lát”.

 

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN:
QUÁN GIẢ VÀ CHÂN

Phật dạy: “Xem trời đất, niệm phi thường, xem thế-giới, niệm phi thường, quán tính linh giác tức là bồ-đề. Hiểu biết như thế thì đắc đạo nhanh chóng vậy!”

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI:
CÁI TA VỐN KHÔNG

Phật dạy: “Nên nghĩ, bốn đại trong thân này, mỗi đại đều tự có cái tên, nhưng chúng đều không có cái TA. Cái TA đã không, thì chúng đều là như - huyễn vậy”.

 

CHƯƠNG HĂM MỐT:
THANH-DANH HẠI MÌNH

Phật dạy: “Người ta hướng theo tình dục tìm cầu thanh-danh. Thanh-danh rực-rỡ thì thân đã tàn vậy! Tham-lam cái danh thường của thế-gian mà không học đạo, thực là uổng công và mệt nhọc thân-hình vậy! Ví như đốt hương, tuy người ngoài ngửi được mùi hương, nhưng hương thì tàn-lụi! Ngọn lửa dục đem lại nguy-hiểm cho thân, mà nhất là nghiệp-quả sau này vậy!”

 

CHƯƠNG HĂM HAI:
TÀI, SẮC VỜI KHỔ

Phật dạy: “Đối với người ta, tài và sắc không bỏ được, ví như lưỡi dao có mật, chút mật trên lưỡi dao, không đủ một bữa ăn ngon nhưng, tiểu-nhi liếm vào thì có cái tai-họa cắt lưỡi!”

 

CHƯƠNG HĂM BA:
CÁI NGỤC VỢ CON

Phật dạy: “người nào hệ-lụy vào vợ, con nhà cửa, còn nặng hơn bị giam trong lao ngục. Lao ngục còn có khi được phóng-thích, nhưng vợ con không có ý-niệm xa lìa được. Tình yêu đắm vào sắc dục như thế, há không sợ còn đeo đuổi mãi sao? Tuy có tai-hoạn như sao vào miệng hổ, tâm phải cố gắng gìn giữ, nén dẹp. Tự dìm ngập vào bùn nhơ là kẻ phàm-phu. Hiểu suốt được cửa ái - dục ấy, để ra khỏi, là bậc La-Hán xuất trần!”

 

CHƯƠNG HĂM BỐN:
SẮC DỤC CHƯỚNG ĐẠO

Phật dạy: “Về ái-dục không có gì tệ-hại hơn sắc. Sắc tạo ra sự ham muốn và, sự nguy-hiểm lớn lao của nó, không có gì vượt ngoài nó được! May nó chỉ có một, nếu có hai cùng như nó, thì khắp mọi người trong thiên hạ này không ai có thể làm đạo được!”

 

CHƯƠNG HĂM LĂM:
LỬA DỤC ĐỐT MÌNH

Phật dạy: “Người ham đắm ái-dục, cũng như người cầm đuốc đi ngược chiều gió thổi, quyết-định sẽ xẩy ra tại-hoạn cháy tay”.

 

CHƯƠNG HĂM SÁU:
THIÊN-MA QUẤY PHẬT

Thiên-thần đem dâng ngọc-nữ cho Phật, muốn làm suy-hoại tâm-ý Phật. Phật dạy: “Túi da bọc các đồ nhơ! Ngươi đến đây làm chi? Đi! Ta không dùng!”
Thiên-thần càng thêm cung-kính và nhân đó hỏi về ý đạo. Đức Phật liền vì Thiên-thần ấy giải-thuyết về đạo-lý, tức thì, Thiên-thần ấy chứng được quả Tu - Đà-Hoàn.

 

CHƯƠNG HĂM BẢY:
KHÔNG CHẤP, ĐẮC ĐẠO

Phật dạy: “Người làm đạo cũng như cây gỗ trôi trên mặt nước, theo dòng nước mà đi, không chạm vào hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy, không bị quỷ-thần ngăn-trở, không bị dòng nước xoáy đứng lại, cũng không bị mục-nát. Được như thế, Ta bảo-đảm cây gỗ ấy, quyết định vào được biển”.

“Người học đạo, không bị tình dục mê-hoặc không bị mọi thứ bất chính quấy-nhiễu, tinh-tiến hướng theo đạo vô-vi, Ta bảo-đảm người ấy, quyết-định đắc-đạo vậy!”

 

CHƯƠNG HĂM TÁM:
ĐỪNG BUÔNG Ý-MÃ

Phật dạy: “Cẩn-thận, đừng tin ý của ngươi. Ý của ngươi không thể tin được. Cẩn-thận, đừng hội-ngộ với sắc, hội-ngộ với sắc thì họa - sinh. Khi chứng được quả A-La-Hán rồi, mới có thể tin được ý của ngươi!”
 
 

CHƯƠNG HĂM CHÍN:
CHÍNH-QUÁN NGĂN SẮC

Phật dạy: “Cẩn-thận, đừng trông nữ-sắc, và cũng không nên cùng trò chuyện. Nếu cùng nói chuyện, nên chính-tâm nhớ nghĩ: “ta là Sa - Môn, ở trong đời vẩn-đục, phải như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, người trẻ như em và người nhỏ như con, mà sinh ra tâm độ thoát, liền diệt được ác-niệm”.

 

CHƯƠNG BA MƯƠI:
XA LÌA LỬA DỤC

Phật dạy: “Người làm đạo như mặc áo cỏ khô, lửa tới nên tránh. Người làm đạo thấy sắc-dục, quyết nên xa tránh!”

 

CHƯƠNG BĂM MỐT:
TÂM VẲNG DỤC DIỆT

Phật dạy: “Có người lo ngại không ngưng được tâm dâm-dục, muốn chặt đứt âm-bộ của mình. Phật bảo người ấy rằng: “Nếu muốn chặt đứt âm-bộ của mình, không bằng chặt đứt tâm của mình! Tâm như cơ-quan chỉ-đạo các công việc, cơ-quan này ngưng công-việc thì những người tùy tòng cũng đều nghỉ. Tâm tà không ngưng, thì chặt đứt âm-bộ có ích gì?”

Đức Phật liền vì người ấy nói bài kệ rằng:

“Dục sinh ở ý ngươi,
Ý bởi tư-tưởng sinh.
Hai tâm đều vẳng-lặng,
Chẳng sắc cũng chẳng hành”.

Đức Phật dạy tiếp: “Bài kệ ấy là do đức Phật Ca-Diếp nói ra!”

 

CHƯƠNG BĂM HAI:
TA KHÔNG, SỢ DIỆT

Phật dạy: “Người ta từ ái-dục sinh ra lo và từ ái-dục sinh ra sợ. Nếu lìa ái-dục, thì còn lo gì? sợ gì?”

 

CHƯƠNG BĂM BA:
TRÍ SÁNG PHÁ MA

Phật dạy: “Người làm đạo, ví như một người chiến-đấu cùng muôn người, mặc áo giáp ra ngoài cửa, ý hoặc khiếp-nhược, hoặc nửa đường lui về, hoặc chống-cự mà chết, hoặc thắng trận trở về. Sa-Môn học đạo, phải nên giữ vững tâm mình, tinh-tiến dũng nhuệ, không sợ cảnh trước mắt, phá diệt mọi ma, mà được đạo-quả”.

 

CHƯƠNG BĂM BỐN:
TRUNG-BÌNH, ĐẮC ĐẠO

Có vị Sa-Môn, ban đêm tụng kinh Di-Giáo của Đức Phật Ca - Diếp, tâm vị ấy có vẻ buồn-rầu hồi-hộp, suy nghĩ, phàn-nàn và muốn rút lui. Đức Phật hỏi vị ấy rằng: “Trước kia ông ở tại gia thường làm nghề gì?”

- Vị ấy đáp: “Con thích gảy đờn cầm.

- Đức Phật hỏi: “Dây đờn chùng thì sao?

- Vị ấy đáp: “Tiếng không kêu”.

- Đức Phật hỏi: “Dây đờn căng thì sao?”

- Vị ấy đáp: “Tiếng gắt vậy”.

- Dây đờn giữ được mức trung-bình, tức là không căng, không chùng thì sao?

- Vị ấy đáp: “Các tiếng của nó sẽ âm vang khắp vậy”.

Phật dạy: “Vị Sa-Môn học đạo cũng thế, nếu tâm điều-hợp, đạo có thể chứng được vậy. Đối với đạo, nếu quá hăng-hái, hăng-hái thì thân mệt; nếu thân mệt thì ý sinh não; nếu ý sinh não thì sự thực-hành bị lùi; sự thực-hành đã lùi thì tội ắt sẽ thêm vậy. Chỉ giữ được thanh-tịnh, an-lạc, thì đạo mới không mất vậy”.

 

CHƯƠNG BĂM LĂM:
NHƠ SẠCH SÁNG CÒN

Phật dạy: “Như người rèn sắt, bỏ sét đi thì thành đồ-vật, đồ - vật tinh - hảo. Người học đạo, bỏ tâm cấu-nhiễm đi thì công-hạnh liền thanh - tịnh vậy”.

 

CHƯƠNG BĂM SÁU:
MỞ-MANG HƠN LÊN

Phật dạy: “Con người ra khỏi đường ác, được trở lại làm người cũng khó. Đã được làm người, bỏ thân nữ được thân nam cũng khó. Đã được làm thân nam, nhưng được sáu căn đầy đủ cũng khó. Được sáu căn đầy đủ, nhưng được sinh nơi trung-quốc cũng khó. Được sinh nơi trung-quốc, nhưng được gặp đời có Phật cũng khó. Được gặp đời có Phật, nhưng gặp được đạo cũng khó. Đã gặp được đạo, nhưng khơi dậy được tín-tâm cũng khó. Khơi dậy được tín-tâm nhưng phát bồ-đề-tâm cũng khó. Phát được bồ-đề-tâm, nhưng đạt được bậc Vô-Tu, Vô Chứng cung khó”.

 

CHƯƠNG BĂM BẢY:
NIỆM GIỚI GẦN ĐẠO

Phật dậy: “Phật-tử xa Ta vài ngàn dậm, nhưng nhớ nghĩ đến giới-luật của Ta, Phật tử ấy quyết-định sẽ được đạo-quả. Phật-tử nào ở ngay bên tả bên hữu Ta, tuy thường thấy Ta, nhưng không thuận theo giới-luật Ta dạy, cuối cùng cũng không được đạo-quả gì”.

 

CHƯƠNG BĂM TÁM:
CÓ SINH CÓ DIỆT

Đức Phật hỏi một vị Sa-Môn: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”

- Vị ấy thưa: “Trong khoảng vài ngày”.

- Phật dạy: “Ông chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa-Môn khác: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”

- Vị ấy thưa: “Vào khoảng một bữa ăn”.

- Phật dạy: “Ông chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa-Môn khác: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”

- Vị ấy thưa: “ Trong khoảng hô-hấp”.

- Phật dạy: “Hay thay, ông biết đạo vậy”.

 

CHƯƠNG BĂM CHÍN:
DẠY BẢO KHÔNG SAI

Phật dạy: “Người học đạo Phật, đức Phật nói điều gì, đều nên tin thuận. Ví như ăn mật, ăn ở giữa hay ở bên cũng đều ngọt. Kinh của Ta nói ra cũng như thế!”.

 

CHƯƠNG BỐN MƯƠI:
HÀNH ĐẠO TẠI TÂM

Phật dạy: “Vị Sa-Môn hành đạo, đừng nên làm như con trâu kéo cối đá. Thân tuy hành đạo, nhưng tâm đạo không hành. Tâm đạo nếu hành, thì dùng hành đạo làm gì!”

 

CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT:
TRỰC-TÂM XUẤT DỤC

Phật dạy: “Người làm đạo, ví như con trâu mang đồ nặng, lại đi vào chỗ bùn sâu rất mệt, nhưng không dám ngoái trông bên tả, bên hữu, chờ khi đi ra khỏi đám bùn lầy, mới có thể nghỉ ngơi. Vị Sa-Môn nên quán sát tình-dục, còn tệ hơn bùn lầy. Trực-tâm niệm đạo, được khỏi khổ vậy”.

 

CHƯƠNG BỐN HAI:
SUỐT SỰ BIẾT HUYỄN

Phật dạy: “Ta coi ngôi vị vương hầu, như hạt bụi qua kẽ hở; coi của báu vàng ngọc như ngói, sỏi; coi trang-phục lụa nõn, như giẻ rách; coi cõi đại-thiên như một hạt ha-tư; coi nước ao A-nậu như giọt dầu thoa chân; coi môn phương - tiện như đống hóa-bảo; coi vô-thượng-thừa như mơ thấy vàng, lụa; coi Phật - đạo như bông hoa trước mắt; coi thiền-định như cột núi Tu-Di; coi niết - bàn như cơn tỉnh ngủ ban ngày; coi sự xoay, thẳng như sáu con rồng múa; coi lý bình - đẳng như nơi nhất-chân pháp-giới; coi sự hưng-hóa như cây bốn mùa”. 

WP: Chân Thiền

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19560)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23826)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41012)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19574)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23821)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21607)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23157)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27369)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26379)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29137)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 32971)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20065)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25600)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20764)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31079)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38285)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21301)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44057)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29659)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 41966)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22024)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45496)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31948)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23816)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24191)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29043)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33745)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27551)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31925)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20887)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28732)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21399)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27853)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 21939)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21322)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19387)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19313)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19100)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 28953)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20489)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28085)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23474)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 32954)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31688)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21264)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39448)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21418)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19235)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26140)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24667)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21636)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22252)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 28963)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22417)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20361)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23368)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21105)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35095)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24458)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31191)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant