Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bốn Mươi Hai Chương

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 19469)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG

(KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Ðời Hậu-Hán, Ngài Ca-Diếp Ma-Ðằng và Ngài Trúc Pháp-Lan dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích Thanh Cát dịch chữ Hán ra chữ Việt

Phần duyên khởi

Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Ðại-định để hàng phục mọi ma chướng.”

Suy nghĩ xong, Ðức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Ðức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.

I. Chứng quả xuất thế gian

Chương một

Ðức Phật dạy: Từ biệt người thân yêu, xuất gia tu đạo, biết tường tận tâm tính, hiểu thấu vô vi, gọi là Sa-môn. Thường giữ gìn 250 giới cấm, trong sạch, chăm làm các điều thiện, bỏ các sự ác, tu bốn đạo hạnh chân-chính, thành quả vị A-La-Hán. Ngôi nầy sống lâu mãi mãi, có thần thông biến hóa, đi bay đến nơi nào thì trời đất nơi ấy phải rung động.

Sau đến ngôi A-Na-Hàm, ngôi nầy khi hết tuổi thọ thế gian thì thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19 để dự vào ngôi A-La-Hán.

Sau đến ngôi Tư-Ðà-Hàm, ngôi nầy phải còn một lần sinh lên trời, một lần xuống nhân gian nữa, mới được lên ngôi A-La-Hán.

Sau hết là Tu-Ðà-Hoàn, ngôi này phải trải qua chín lần tử, chín lần sinh nữa mới được đến quả vị A-La-Hán.

Người đã đoạn tuyệt ái dục, không còn chạy theo ái dục, cũng như người đã chặt đứt chân tay, thì không còn dùng được tay chân ấy nữa.

II. Tu hạnh xuất gia

Chương hai

Phật dạy: Người xuất gia tu đạo, phải đọan bỏ ái dục, biết nguồn gốc tâm tính, hiểu nghĩa lý sâu xa và liễu-ngộ phép vô-vi của Phật.
Trong tâm không thấy phép gì để được, ngoài cảnh không còn môn gì để cầu. Tâm không cố chấp vào đạo, cũng không kết buộc thêm nghiệp. Không phải nhớ, không làm, không tu, không chứng, không phải trải qua các ngôi thứ, mà ngôi thứ độc-tôn ấy chính là đạo.

Chương ba

Phật dạy: Người cạo bỏ râu tóc, vào hàng Sa-môn, học đạo của ta, phải lìa bỏ của cải thế gian, chỉ cốt sao cho tạm đủ. Mỗi ngày mỗi bữa ăn giữa trưa, một giấc ngủ dưới gốc cây, không nên ăn, ngủ hai lần một ngày đêm.
Người bị mê lầm trụy lạc, đều do tâm yêu (ái) muốn (dục) sinh ra vậy.

Chương bốn

Phật dạy: Chúng sinh lấy mười điều là thiện, cũng lấy mười điều là ác. Ba điều về thân, bốn điều về miệng, ba điều về ý.
Ba điều về thân là: Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Bốn điều về miệng là : Nói lưỡi đôi chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói dối càn. Ba điều về ý là : Tham lam, giận tức, si mê.
Mười điều ấy thuận với chính-đạo, nói chung là mười điều thiện, trái lạimười điều ác.

Chương năm
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều. 
Nếu người có lỗi tự giác-ngộ, đổi ác làm lành, tội sẽ tiêu mòn. Ví như người đau ốm được ra mồ hôi, bệnh tật sẽ dần khỏi vậy.

Chương sáu
Phật dạy: Kẻ ác tâm, khi nghe thấy người ta làm điều thiện, hay sinh phá quấy. Nhưng các ông phải nín nhịn, đừng giận tức, trách mắng họ.
Kẻ trồng nhân xấu, sẽ tự hái quả xấu.

Chương bảy
Phật dạy: Kẻ xấu, nghe người ta tu đạo, làm những việc nhân từ. Họ cố đến mắng ta, ta im lặng, không nói lại một lời. Khi mắng xong, ta hỏi họ rằng : “Ngươi đem lễ vật biếu người khác, họ không nhận, lễ vật ấy có trả lại ngươi không ?” Kẻ xấu kia đáp: “Lễ vật đó về tôi vậy.”
Phật lại bảo: “Nay ngươi đến mắng ta, ta không nghe, lời mắng ấy lại trả lại ngươi và ngươi tự dìu lấy tội lỗi: nhân nào, quả ấy, như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không thể tránh được. Vậy đừng nên làm điều ác.”

Chương tám
Phật dạy : Kẻ ác hại người hiền, cũng như ngửa mặt nhổ bọt lên trời. Bọt chẳng tới trời, trái lại bọt rơi mặt mình. Hay như tung bụi ngược gió, bụi không tới người bị tung, trái lại bụi trở lại tạt vào mình.
Kẻ ác hại người hiền cũng thế, người hiền không bị hại, mà chính kẻ ác tự hại mình trước.

III. Lập tín nguyện

Chương chín
Phật dạy : Kẻ học rộng biết nhiều, nhưng hiểu và tin đạo một cách nông cạn, không thể lãnh ngộ được ý đạo. Trái lại người biết giữ bền tâm chí, phụng sự đạo một cách chắc chắn, thì lý đạo mới hiểu sâu xa vậy.

IV. Tu lục-độ hạnh

1. Bố-thí độ

Chương mười
Phật dạy: Thấy người ta truyền bá đạo, mình giúp thêm hoan hỷ, sẽ được phúc rất nhiều.
Một vị sa môn hỏi Phật: “Phúc đem chia người khác có hết không?” Phật đáp: “Ví như bó đuốc cháy, hàng trăm, ngàn người cầm đuốc đến, châm lấy lửa đem về nấu thức ăn và đốt đèn sáng, mà lửa ở bó đuốc cháy đầu tiên kia vẫn còn nguyên. Vậy ông nên hiểu, phúc cũng như thế.”

Chương mười một
Phật dạy: Cho 100 người ác ăn, không bằng cho một người thiện ăn. Cho 100 người thiện ăn không bằng cho một người trì năm giới ăn. Cho một vạn người trì năm giới ăn, không bằng cúng dường một vị Tu-Ðà-Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu-Ðà-Hoàn, không bằng cúng dường một vị Tư-Ðà-Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư-Ðà-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-Na-Hàm. Cúng dường mười vạn vị A-Na-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-La-Hán. Cúng dường một triệu vị A-La-Hán, không bằng cúng dường một vị Bích-Chi Phật. Cúng dường mười triệu vị Bích-Chi Phật, không bằng cúng dường một Ðức Phật trong ba đời. Cúng dường một trăm triệu Ðức Phật, không bằng cúng dường một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.

Chương mười hai
Phật dạy: Người ta có 20 điều khó làm:
Nghèo khổ biết bố thí là khó.
Giàu sang biết học đạo là khó.
Bỏ mình vì lẽ phải là khó.
Thấy được kinh Phật là khó.
Sanh nhằm đời có Phật là khó.
Nhịn sắc nhịn dục là khó.
Thấy thứ tốt không ham cầu là khó.
Bị nhục không giận tức là khó.
thế lực không ỷ là khó.
Gặp việc vô tâm là khó.
Học rộng nghiên cứu nhiều là khó.
Trừ diệt ngã mạn là khó.
Chẳng khinh người chưa học là khó.
Thực hành tâm bình đẳng là khó.
Chẳng nói sự phải quấy là khó.
Gặp được Thiện Tri Thức là khó.
Thấy tánh học đạo là khó.
Tùy duyên hóa độ người là khó.
Thấy cảnh không động tâm là khó.
Khéo biết phương tiện là khó.

2. Trì giới độ

Chương mười ba
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, nhờ nhân duyên gì biết được đời trước ?”
Ðức Phật dạy : “Tâm thanh tịnh, giữ bền chí, thì tâm lãnh-hội được đạo nhiệm mầu. Ví như lau bụi mặt gương. Bụi hết mặt gương sáng tỏ hiện ra.
Người học đạo cũng vậy, nếu đoạn trừ hết ái-dục, thì sẽ biết được đời trước.”

Chương mười bốn
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn : thế nào là (thiện) hay nhất và lớn nhất (đại) ?”
Phật dạy : “Hành đạo giữ tâm chân chính là hay nhất. Chí khí cùng đạo hoà hợp là lớn nhất.”

3. Nhẫn nhục độ

Chương mười lăm
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, cái gì mạnh nhất, cái gì sáng nhất ?”
Phật dạy : “Tu hạnh nhẫn nhục mạnh nhất, vì tâm không chứa chấp điều ác, nên thân thể được nhẹ nhàng, khỏe mạnh, và được mọi người tôn trọng. Tâm xấu diệt hết, chút bụi phiền não không còn, gọi là sáng nhất.
Vả lại, sáng nhất có nghĩa là đã được trí hiểu biết hết thảy, cho nên, vạn vật trong mười phương, kể từ khi chưa có trời, đất cho đến ngày nay, đều trông thấy, nghe thấy và hiểu biết khắp tất cả vậy.”

4. Thiền-định độ

Chương mười sáu
Phật dạy : Người ôm ấp tâm ái dục, không thể thấy được đạo, ví như nước đã lắng trong, lại cho tay quấy đục lên. Tuy mọi người đến soi mặt mình, nhưng không thể thấy bóng mình hiện trong đó nữa.
Người tu đạo cũng thế, nếu còn ham mê ái dục thì trong lòng vẫn còn vẩn đục, nên không thấy được đạo chân chính. Các ông là Sa-môn, phải gấp đoạn trừ ngay ái dục. Khi ái dục hết, đạo mới khả dĩ lĩnh ngộ được.

5. Bát-nhã độ

5.1. Trí căn-bản

Chương mười bảy
Phật dạy : Người học đạo thấy rõ đạo, cũng như người cầm đuốc vào trong nhà tối. Bóng tối hết chỉ có ánh sáng còn lại.
Người học đạo, hiểu rõ đạo tức là Vọng-tâm mê mờ hết, chỉ còn toàn ánh sáng Chân-tâm thường trụ.

5.2. Trí hậu đắc

Chương mười tám
Phật dạy : Người học đạo pháp của ta, nhớ mà không chấp nhớ mới gọi là nhớ. Làm mà không chấp làm mới gọi là làm. Nói mà không chấp nói mới gọi là nói. Tu mà không chấp tu mới gọi là tu. Người khéo lĩnh hội thì được gần đạo. Kẻ mê mờ thì cách xa đạo.
Cái đạo lớn không thể lấy lời nói để bàn luận nổi, và cũng không bị vật nào câu thúc được. Nếu có một mảy may sai lầm, thì chỉ bằng nháy mắt (tích tắc) sẽ mất hết.

5.3. Gia-hành trí

a. Quán vô thường

Chương mười chín
Phật dạy : Quán sát trời đất là vô thường, quán sát thế giớivô thường. Quán sát tâm linh giác là Bồ-đề.
Hiểu như thế thời đắc đạo rất chóng vậy.

b. Quán vô ngã như huyễn

Chương hai mươi
Phật dạy : Quán sát bốn đại trong thân nầy, mỗi cái có tên riêng, không có cái nào đáng gọi là ta cả.
Cái ta đã không có, thì thân nầy cũng là giả dối.

c. Thông quán ngũ dục

Chương hai mươi mốt
Phật dạy : Người tùy theo thế tình, tham cầu danh vọng. Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời không biết học đạo, chỉ uổng công nhọc xác.
Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy mùi thơm, thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa luôn đốt cháy liền thân hương vậy.

Chương hai mươi hai
Phật dạy : Người ham mê tiền tài, sắc đẹp, tất nhiên sẽ bị tai vạ. Tài sắc ví như mật dính lưỡi dao. Mật ngon không đáng một miếng ăn, nhưng trẻ con ngây dại, tham liếm chút mật, nhất định chúng sẽ bị đứt lưỡi.

Chương hai mươi ba
Phật dạy : Người ta thường cho rằng bị giam hãm trong nhà tù là khổ. Nhưng sự khổ ấy chưa bằng nỗi khổ bằng sự ràng buộc bởi gia đình, vợ chồng, con cái. Vì người sống trong nhà tù, còn có thì giờ nhàn rỗi, và có khi được ra. Trái lại người có gia đình lúc nào cũng phải lo nghĩ về việc nhà cửa làm ăn... nên rất khổ.
Do sắc sinh tình, do tình sinh ân ái, canh cánh bên lòng. Mặc dầutai nạn phải kề bên miệng hổ, cũng phải cam tâm nhẫn chịu. Người xuống bùn thì phải lấm chân nên gọi là phàm tục. Trái lại người nào vượt ngoài vòng ái dục, gọi là bậc La-Hán xuất trần.

Chương hai mươi bốn
Phật dạy : Người đời có nhiều sự ham muốn, nhưng ham muốn nữ sắc hơn hết, do sắc đẹp sinh lòng ham mến (yêu), nên cái ham mến là hơn hết.
May thay, chỉ có một sắc đẹp, chớ có hai thì tất cả mọi người trong thiên hạ không ai tu nổi được.

Chương hai mươi lăm
Phật dạy : Người mê ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tức nhiên sẽ bị bỏng tay.

Chương hai mươi sáu
Thiên Thần đưa Ngọc nữ (gái đẹp) đến chỗ Phật để phá hoại quả tu của Ngài. Ðức Phật nói : “Cái túi da đựng đồ dơ bẩn, lại đây làm gì ? Tránh xa đi, ta không thèm đâu”. Thiên Thần thấy Phật nói thế, liền khởi tâm kính cẩn, nhân đấy, ông liền hỏi Phật về ý đạo. Phật bèn giải đáp. Thiên Thần nghe xong, liền được chứng quả Tu-Ðà-Hoàn.

6. Tinh-tấn độ

1a. Mặc áo giáp hạnh tinh-tấn

Chương hai mươi bảy
Phật dạy : Người tu đạo, cũng như cây gỗ trên mặt nước, trôi giữa dòng sông, không chạm hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy hoặc bị quỷ thần ngăn cản, hay nước xoáy chìm, cũng không bị mục nát. Ta bảo đảm cây gỗ ấy, chắc chắn trôi thẳng về biển.
Người học đạo cũng thế. Nếu không bị tình dục lôi cuốn, hay tà ma ám ảnh, cứ tinh tiến tu phép vô vi, ta bảo đảm người ấy quyết định đắc đạo vậy.

Chương hai mươi tám
Phật dạy : Các Phật-tử ! Phải cẩn-thận đừng nên gần gũi sắc dục. Gần nó tất nhiên sinh hoạ.
Khi đắc quả A-La Hán rồi, mới có thể tin được ý ngươi.

Chương hai mươi chín
Phật dạy : Các Phật-tử, phải cẩn-thận đừng nhìn nữ sắc, cũng chớ nên nói chuyện.
Nếu cùng họ nói chuyện, phải chính-tâm nhớ nghĩ : “Mình là Sa-môn, sống trong cõi đời vẩn đục như hoa sen trong bùn mà không nhiễm chất hôi tanh của bùn. Phải tưởng người già như mẹ (cha). Người lớn hơn như anh (chị), người kém tuổi như em, người trẻ tuổi như con.
Nên khởi chính-tâm cứu độ cho họ được giải-thoát, để dập tắt những ý-nghĩ xằng bậy.

Chương ba mươi
Phật dạy : Người hành đạo phải tránh xa ái-dục, ví như cỏ khô tránh xa lửa.

Chương ba mươi mốt
Phật dạy : Có kẻ lo sợ khi động tình dâm dục không kìm hãm nổi, muốn tự đoạn âm. Phật liền bảo rằng : “Ðoạn âm không bằng đoạn tâm”.
Tâm như ông tướng chỉ-huy. Nếu tướng đình-chỉ thì quân phải theo lịnh. Tâm cũng như vậy. Nếu tâm nghĩ xằng bậy không ngăn cấm được, thì dù đoạn-âm cũng vô ích.
Phật liền thuật lại bài kệ của Ðức Phật Ca-Diếp như sau : “Do ý ngươi sinh tư tưởng, tư tưởng sinh ái-dục. Nếu trong tâm bình tĩnh thì ngoài thân yên ổn”.

Chương ba mươi hai
Phật dạy : Người ta vì tình yêu, tình dục mà sinh buồn phiền, lo nghĩ. Từ lo nghĩ sinh sợ hãi. Nếu không yêu muốn thì không lo sợ chi cả.

1b. Mặc áo giáp tưởng-tinh-tấn

Chương ba mươi ba
Phật dạy : Người tu đạo như người chiến-sĩ đánh nhau với quân địch. Khi người ấy mặc áo giáp ra trận, hoặc hèn nhát nửa đường rút lui, hoặc giao chiến mà chết, hay đánh được khải-hoàn (về).
Sa-Môn học đạo cũng thế. Phải vững chí, tinh tiến, quả cảm, hùng dũng trước nguy hiểm. Quyết tiêu-diệt ma quân để chiếm lấy đạo-quả.

2. Tiếp-thiện tinh-tấn

Chương ba mươi bốn
Một vị Sa-môn đêm đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp. Tụng lâu tiếng khàn đục, rồi suy nghĩ hối hận muốn thôi.
Phật bèn hỏi : “Ngày trước ông ở nhà làm nghề nghiệp gì ?” Vị ấy đáp : “Con thích đánh đàn”. Phật lại hỏi : “Cây đàn dây chùng thế nào ?” Vị ấy thưa rằng : “Tiếng nó không kêu”. Phật lại hỏi : “Dây đàn lên găng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng gay gắt và sẽ đứt”. Phật lại hỏi : “Dây đàn vừa phải, không căng, không chùng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng nó dịu dàng, êm ái, nghe rất vui tai.” 
Phật dạy tiếp : “Sa-môn các ông học đạo cũng như cây đàn. Phải giữ mực điều-hoà thì đạo mới thắng. Nếu hành đạo quá sức thì thân mỏi mệt, thân nếu mỏi mệt thì ý sanh phiền não, ý sanh phiền não thì thoái đạo. Thoái đạo thì tội lỗi sinh. Nếu tâm an-tịnh giữ mực trung bình, thì đạo không bao giờ mất vậy.

Chương ba mươi lăm
Phật dạy : Người thợ rèn sắt trừ hết sét rỉ, thì sắt mới trở nên đồ dùng tốt.
Người học đạo cũng thế, phải trừ hết tâm nhơ bẩn thì đạo hạnh mới trở nên trong sạch vậy.

3. Lợi lạc tinh-tấn

Chương ba mươi sáu
Phật dạy : Kẻ đã xa lìa được con đường ác, được sinh làm thân người là việc khó. Ðược sinh làm người, lại được được sinh làm đàn ông là khó. Ðược sinh làm đàn ông có sáu căn đầy đủ là khó. Ðược sáu căn đầy đủ, lại được ở giữa Trung-quốc (cõi Trung) là khó. Ðược gặp Phật ra đời là khó. Ðược gặp Phật ra đời lại được gặp đạo là khó. Ðược gặp đạo lại khởi lòng tin kính là khó. Ðã khởi lòng tin đạo lại phát tâm Bồ-đề là khó. Ðã phát tâm Bồ-đề lại tu chứng đến quả-vị không còn phải tu chứng lại là việc khó hơn hết.

V. Minh cấp giới thặng

Chương ba mươi bảy
Phật dạy : Người nào tuy cách xa ta hàng ngàn dặm, nhưng luôn luôn tuân theo giới luật của ta, tất nhiên sẽ được chứng quả. Trái lại, những người dù thân cận bên ta, hàng ngày trông thấy ta mà không chịu noi theo ta, theo những điều ta giảng dạy, thì không bao giờ được chứng đạo quả.

Chương ba mươi tám

Phật hỏi một vị sa môn : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Vị Sa-môn thưa : “Trong khoảng vài ngày.” Phật bảo : “Ông chưa biết đạo”. Phật lại hỏi vị Sa-môn khác : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng bữa ăn.” Phật bảo : “Ông cũng chưa biết đạo.”
Phật lại hỏi vị Sa-môn khác nữa : “Mệnh người ta sống được bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng giây phút (thở ra hít vào)”. Phật bảo : “Hay lắm! Hay lắm! ông hiểu đạo vậy.”

Tín giáo - Giải lý - Tu hành

I. Tín giáo

Chương ba mươi chín
Phật dạy : Người học đạo nên tin theo những điều giáo-hoá của Phật.
Kinh sách của ta, cũng như ăn mật ở bát, ở giữa hay ở chung quanh bát đều ngọt cả.

II. Giải lý

Chương bốn mươi
Phật dạy : Sa-môn hành đạo, đừng như trâu kéo mật, thân tuy thành đạo, mà tâm không hành đạo thì có ích gì ?
Nếu tâm hành đạo thì thân khỏi phải hành đạo.

III. Tu hành

Chương bốn mươi mốt
Phật dạy : Người hành đạo như trâu chở nặng, đi vào bùn lầy, tuy mỏi mệt, nhưng không dám quay trở lại, trông sang bên phải, bên trái. Chỉ khi nào ra khỏi đám bùn ấy, mới được nghỉ ngơi.
Sa-môn cũng vậy, phải đề phòng tình dục tệ hại hơn bùn lầy. Phải nhất tâm suy nghĩ về đạo, mới có thể thoát khỏi khổ não.

Phần kết luận

Chương bốn mươi hai
Phật dạy : Ta coi ngôi vua, quan như bụi qua kẽ hở, coi vàng ngọc như ngói sỏi, coi nhung lụa gấm vóc như vải thô, coi đại-thiên giới như hạt cải, coi nước.

Đọc thêm:
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Viên Giác Dịch và Giảng
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Phước Tịnh Dịch và Giảng
Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương, HT. Tuyên Hóa
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, HT. Thích Tâm Châu

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19662)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23926)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41161)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19650)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23932)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21723)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23274)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27466)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26513)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29274)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33126)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20161)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25712)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20871)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31252)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38493)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21386)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44198)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29776)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42108)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22105)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45665)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32060)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23926)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24323)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29213)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33871)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27645)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32076)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21022)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28821)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21519)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27990)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22042)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21409)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19438)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19798)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19207)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29122)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20581)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28255)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23612)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33125)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31798)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21349)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39576)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21521)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19352)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26306)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24782)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21725)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22344)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29098)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22529)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20450)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23469)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21206)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35252)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24531)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31302)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant