Ðại
Tạng Kinh Việt Nam
KINH
TĂNG CHI BỘ
Anguttara
Nikàya
Hòa thượng
Thích Minh Châu dịch Việt
Chương XI - Mười Một Pháp
I. Phẩm Y Chỉ
(I) (1) Có Lợi Ích Gì
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, các thiện giới có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, không hối tiếc có ý nghĩa gì? Có lợi
ích gì?
- Này Ananda, không hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân
hoan.
- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.
- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an.
- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, khinh an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định.
- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích
như thật tri kiến.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thật tri kiến có ý nghĩa gì, có lợi
ích gì?
- Này Ananda, như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, có lợi ích
nhàm chán.
- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm chán có ý nghĩa gì, có lợi ý gì?
- Này Ananda, nhàm chán có ý nghĩa ly tham, có lợi ích ly tham.
- Nhưng bạch Thế Tôn, ly tham có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda ly tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải
thoát tri kiến.
2. Như vậy, này Ananda, các thiện giới có ý nghĩa không hối
tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếc có ý nghĩa
hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi
ích hoan hỷ. Hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh
an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạc có ý nghĩa định, có
lợi ích định. Ðịnh có ý nghĩa gì như thật tri kiến, có lợi ích
như thật tri kiến. Như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, có lợi
ích nhàm chán. Nhàm chán có ý nghĩa ly tham, có lợi ích ly tham. Ly tham
có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.
Như vậy, này Ananda, các thiện giới thứ lớp dẫn đến tối thượng.
(II) (2) Nghĩ Với Dụng Ý
(Giống như kinh số 2, Chương Mười Pháp, chỉ khác "nibbidà
viràgatthà", nhàm chán ly tham, chia 2 nên thành 11 pháp)
(III) (3) Sở Y, Do Bậc Ðạo Sư Thuyết
(Tương tự kinh số 3, Chương Mười Pháp, chỉ khác "nibbidà
viràgatthà", nhàm chán ly tham, chia 2 nên thành 11 pháp).
(IV) (4) Sở Y, Do Tôn Giả Sariputta Thuyết
(Tương tự kinh số 4, Chương Mười Pháp, chỉ khác "nibbidà
viràgatthà", nhàm chán ly tham, chia 2 nên thành 11 pháp).
(V) (5) Sở Y, Do Tôn Giả Ananda Thuyết
(Tương tự kinh số 5, Chương Mười Pháp, chỉ khác "nibbidà
viràgatthà", nhàm chán ly tham, chia 2 nên thành 11 pháp).
(VI) (6) Tai Họa
1. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào mắng nhiếc, chỉ trích,
quở trách các bậc Thánh là những vị đồng Phạm hạnh, thời không có sự
kiện, không có cơ hội rằng người ấy không gặp một trong mười một tai
họa. Thế nào là mười một?
2. Không chứng điều chưa chứng, đã chứng được thời mất đi, diệu
pháp không được tỏ rõ, hay là tự kiêu trong diệu pháp, hay là không hoan
hỷ sống Phạm hạnh, hay phạm một tội ô uế, hay từ bỏ Phạm hạnh và
hoàn tục, hay là thọ bệnh nặng, hay là đạt đến điên cuồng loạn
tâm, hay là bất tỉnh khi mệnh chung, sau khi thân hoại mạng chung rơi vào cõi
dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào mắng nhiếc, chỉ trích,
quở trách các bậc Thánh là những đồng Phạm hạnh, thời không có sự
kiện, không có cơ hội rằng người ấy không gặp một trong mười một tai
họa này.
(VII) (7) Tưởng Hay Tác Ý (1)
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định, như vậy, vị ấy có thể trong đất không tưởng đến đất, trong nước không tưởng đến nước, trong lửa không tưởng đến lửa, trong gió không tưởng đến gió, trong Không vô biên xứ không tưởng đến Không vô biên xứ, trong Thức vô biên xứ không tưởng đến Thức vô biên xứ, trong Vô sở hữu xứ không tưởng đến Vô sở hữu xứ, trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trong thế giới hiện tại không tưởng đến thế giới hiện tại, trong thế giới đời sau không tưởng đến thế giới đời sau, và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
2. Này Ananda, có thể như vậy, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền
định như vậy, có thể trong đất không tưởng đến đất, trong nước
không tưởng đến nước, trong lửa không tưởng đến lửa, trong gió
không tưởng đến gió, trong Không vô biên xứ, không tưởng đến Không
vô biên xứ, trong Thức vô biên xứ không tưởng đến Thức vô biên xứ,
trong Vô sở hữu xứ không tưởng đến Vô sở hữu xứ, trong Phi tưởng phi
phi tưởng xứ không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trong thế
giới hiện tại không tưởng đến thế giới hiện tại, trong
thế giới đời sau không tưởng đến thế giới đời sau. Và phàm
điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được
đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong
ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
3. Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào một vị Tỷ-kheo khi chứng
được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau... vị ấy có thể không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
4. Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo tưởng như sau: "Ðây là an
tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả
sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn".
Như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy,
vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất, trong nước không
tưởng đến nước... trong thế giới đời sau, không tưởng đến
thế giới đời sau... vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn
có tưởng.
(VIII) (8) Tưởng Hay Tác Ý (2)
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
bên hữu hướng về Thế Tôn, rồi đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi
đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi
nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Ananda thưa với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Tôn giả Sàriputta, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất không tưởng đến đất, trong nước không tưởng đến nước, trong lửa không tưởng đến lửa, trong gió không tưởng đến gió, trong Không vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ, trong Thức vô biên xứ không tưởng đến Thức vô biên xứ, trong Vô sở hữu xứ không tưởng đến Vô sở hữu xứ, trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trong thế giới hiện tại không tưởng đến thế giới hiện tại, trong thế giới đời sau không tưởng đến thế giới đời sau. Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
2. Này Ananda, có thể như vậy, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền
định như vậy... được ý suy nghĩ đến, vị ấy không có tưởng
đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
3. Nhưng thưa Tôn giả Sàriputta, như thế nào, một Tỷ-kheo, khi chứng
được Thiền định như vậy... được ý suy nghĩ đến, vị ấy không
có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
4. Ở đây, này Hiền giả Ananda, Tỷ-kheo tưởng như sau: "Ðây
là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ
bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Như vậy, này Hiền giả Ananda, Tỷ-kheo khi chứng
được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất không tưởng đến
đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời
sau... vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
5. Thật vi diệu thay, thưa Hiền giả! Thật hy hữu thay, thưa Hiền
giả! Sự giải thích của Ðạo Sư và đệ tử tương hợp, tương hội, không
tương phản nhau, nghĩa với nghĩa, lời với lời, tức là đối với câu tối
thượng. Thưa Hiền giả, vừa rồi tôi đã đi đến Thế Tôn và hỏi
ý nghĩa này, Thế Tôn với những câu thế này với những lời thế
này, đã trả lời về ý nghĩa này, giống như Tôn giả Sàriputta. Thật
vi diệu thay, Hiền giả! Thật hy hữu thay, Hiền giả! Sự giải thích
của Ðạo Sư và đệ tử sẽ tương hợp, sẽ tương hội, không tương phản
nhau tức là về câu tối thượng.
(IX) (9) Tác Ý
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc, có thể không tác ý đến tai, có thể không tác ý đến tiếng, có thể không tác ý đến mũi, có thể không tác ý đến hương, có thể không tác ý đến lưỡi, có thể không tác ý đến vị, có thể không tác ý đến thân, có thể không tác ý đến xúc, có thể không tác ý đến đất, có thể không tác ý đến nước, có thể không tác ý đến lửa, có thể không tác ý đến gió, có thể không tác ý đến Không vô biên xứ, có thể không tác ý đến Thức vô biên xứ, có thể không tác ý đến Vô sở hữu xứ, có thể không tác ý đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có thể không tác ý đến đời này, có thể không tác ý đến đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý?
2. Này Ananda, có thể như vậy: Một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền
định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác
ý đến sắc... (như trên, 9.1)... được ý suy nghĩ đến, vị ấy
có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
3. Bạch Thế Tôn, nhưng thế nào, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý?
4. Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tác ý như sau: "Ðây là an
tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả
sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn".
Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị
ấy có thể không tác ý đến mắt, có thể không tác ý
đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác
ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
(X) (10) Sandha
1. Một thời Thế Tôn trú ở Nàtika, tại ngôi nhà có lợp ngói. Rồi Tôn
giả Sandha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sandha đang ngồi một bên:
2. Này Sandha, hãy tu Thiền với sự Thiền định của con ngựa thuần
thục, chớ có với Thiền định của con ngựa chưa thuần thục. Và này Sandha,
thế nào là Thiền định của con ngựa chưa thuần thục?
3. Con ngựa chưa thuần thục, khi bị cột vào máng ăn, liền Thiền tư:
"Cỏ ăn, cỏ ăn". Vì sao? Này Sandha, con ngựa chưa thuần thục, khi bị
cột vào máng ăn, không có nghĩ như sau: "Không biết hôm nay, người
đánh xe điều phục ngựa sẽ bảo ta làm việc gì? Nay ta có thể làm
gì để báo đáp? " Con ngựa bị cột vào máng ăn, chỉ Thiền tư:
"Cỏ ăn, cỏ ăn! " Cũng vậy, này Sandha, ở đây có hạng người chưa
được thuần thục, khi đi đến ngôi rừng, hay khi đi đến gốc cây, hay
khi đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham
chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên.
Người ấy tàng trữ dục tham vào trong, rồi Thiền tư, Thiền lự,
Thiền liên tục, Thiền quán, trú với tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi
phối... trú với tâm bị hôn trầm thụy miên ám ảnh, bị hôn trầm thụy miên
chi phối... trú với tâm bị trạo hối ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với
tâm bị nghi hoặc ám ảnh, bị nghi hoặc chi phối, không như thật rõ biết
sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào
trong, rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán.
Người ấy Thiền tư, y chỉ vào đất, Thiền tư y chỉ vào nước,
Thiền tư y chỉ vào lửa, Thiền tư y chỉ vào gió, Thiền tư y chỉ
vào Không vô biên xứ, Thiền tư y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư
y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
Thiền tư y chỉ vào đời này, Thiền tư y chỉ vào đời sau, phàm
điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được
đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều ý
chỉ vào đấy người ấy Thiền tư. Như vậy, này Sandha là người Thiền
tư không thuần thục. Và này Sandha, như thế nào là Thiền tư như con
ngựa thuần thục?
4. Con ngựa hiền lương, này Sandha, con ngựa được thuần thục, khi bị
cột vào máng ăn, không có Thiền tư: "Cỏ ăn, cỏ ăn! " Vì sao?
Này Sandha, con ngựa đã thuần thục, khi bị cột vào máng ăn, suy nghĩ như sau:
"Không biết hôm nay, người đánh xe điều phục ngựa sẽ bảo ta làm
việc gì? Nay ta có thể làm gì để báo đáp? " Con ngựa bị cột
vào máng ăn, không có Thiền tư: "Cỏ ăn, cỏ ăn! " Con ngựa
hiền lương, này Sandha, được thuần thục, nhìn sự áp dụng cây gậy thúc
ngựa hiền lương như là món nợ, như là trói buộc, như là một thiệt
hại, như là một điềm xấu. Cũng vậy, này Sandha, con người hiền
thiện, thuần thục, khi đi đến khu rừng, khi đi đến gốc cây, khi
đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm không bị dục tham ám ảnh, không bị
dục tham chinh phục, như thật quán tri sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên.
Vị ấy an trú với tâm không bị sân ám ảnh... Vị ấy an trú với tâm không bị
si ám ảnh... Vị ấy an trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên ám ảnh... Vị
ấy an trú với tâm không bị trạo hối ám ảnh... Vị ấy an trú với tâm không
bị nghi hoặc ám ảnh, không bị nghi hoặc chinh phục, như thật rõ biết sự
xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào
đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa,
Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên
xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ
vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào
thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác,
được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý
suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền
tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với
Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con
người hiền thiện thuần thục:
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết.
5. Khi nghe nói như vậy, Tôn giả Sandha bạch Thế Tôn:
- Thiền tư như thế nào, bạch Thế Tôn là con người hiền thiện
thuần thục Thiền tư? Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền
tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư
không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ,
Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào
Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào
thế giới sau, và phàm cái gì được thấy, được nghe, được cảm giác,
được thức tri, được tầm cầu, được đạt đến, được ý suy tư, vị
ấy Thiền tư, không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy vị ấy vẫn thiền tư.
Thiền tư như thế nào, bạch Thế Tôn là con người hiền
thiện thuần thục, khiến chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên
với chúng Phạm thiên dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần
thục:
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết?
6. Ở đây này Sandha, với con người hiền thiện thuần thục,
tưởng đất trong đất được sáng tỏ, tưởng nước trong nước được sáng
tỏ, tưởng gió trong gió được sáng tỏ, tưởng lửa trong lửa được sáng tỏ, tưởng Không vô biên xứ trong Không
vô biên xứ được sáng tỏ, tưởng Thức vô biên xứ trong Thức vô biên xứ
được sáng tỏ, tưởng Vô sở hữu xứ trong Thức vô sở hữu xứ được sáng
tỏ, tưởng Phi tưởng phi phi tưởng xứ trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ được
sáng tỏ, tưởng thế giới này trong thế giới này được sáng tỏ,
tưởng thế giới sau trong thế giới sau được sáng tỏ, phàm cái gì
được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được tầm cầu,
được đạt đến, được ý suy tư, tưởng ấy được sáng tỏ.
Thiền tư như vậy, này Sandha là người đã hiền thiện thuần thục,
vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước,
Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền
tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô
biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y
chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế
giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau. Phàm cái gì được
thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến,
được tầm cầu, được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy
vậy vẫn có Thiền tư. Do Thiền tư như vậy, này Sandha, là con người
hiền thiện thuần thục, khiến chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm
thiên với chúng Phạm thiên dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện
thuần thục:
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết.
(XI) (11) Rừng Khổng Tước
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại chỗ nuôi
dưỡng khổng tước ở khu vườn các du sĩ. Tại đấy, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. Thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu cánh
của cứu cánh, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh Phạm hạnh, cứu
cánh mục đích, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào
là ba?
3. Vô học giới uẩn, vô học định uẩn, vô học tuệ uẩn.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu
cánh của cứu cánh, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh Phạm hạnh,
cứu cánh mục đích, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
4. Lại thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu
cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
5. Thần biến thần thông, ký tâm thần thông, giáo hóa thần thông.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt đến
cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người.
6. Lại thành tựu ba pháp khác, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được
cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
7. Với chánh tri kiến, với chánh trí, với chánh giải thoát.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt đến cứu
cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người.
8. Thành tựu với hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt
đến cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người. Thế nào là
hai?
9. Với minh và với hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt đến cứu
cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người.
10. Này các Tỷ-kheo, đây là những bài kệ do Phạm thiên Sanamkumàra
nói lên:
Sát-lỵ, chúng tối thắng,
Với người tin chủng tánh,
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Này các Tỷ-kheo, những bài kệ này được khéo hát lên, không phải
vụng hát, được khéo nói lên, không phải vụng nói, liên hệ đến mục
đích, không phải không liên hệ đến mục đích, và được Ta chấp
nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng nói lên như vậy:
Sát-lỵ, chúng tối thắng,
Với người tin chủng tánh,
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng giữa chư Thiên.
II. Phẩm Tùy Niệm
(I) (12) Mahànàma (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu
vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo đang may y cho Thế Tôn,
nghĩ rằng: "Y làm xong, sau ba tháng, Thế Tôn sẽ bộ hành ra đi".
Họ Thích Mahànàma được nghe: "Nhiều Tỷ-kheo đang may y cho
Thế Tôn, nghĩ rằng: "Y làm xong, sau ba tháng, Thế Tôn sẽ bộ hành
ra đi". Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
- Con nghe như sau, bạch Thế Tôn: Có nhiều Tỷ-kheo đang may y cho
Thế Tôn nghĩ rằng: "Y làm xong, sau ba tháng, Thế Tôn sẽ bộ hành
ra đi". Bạch Thế Tôn, giữa các người an trú với những an trú khác
nhau, chúng con nên an trú với an trú nào?
2. Lành thay, lành thay, này Mahànàma! Như vậy thật xứng đáng cho thiện
nam tử các người, sau khi đến Thế Tôn đã hỏi, đã thưa như vậy:
"Bạch Thế Tôn, giữa các người an trú với những an trú khác nhau,
chúng con nên an trú với an trú nào? " - "Hãy nhập cuộc, này Mahànàma
với lòng tin, không phải với không lòng tin. Hãy nhập cuộc với tinh cần tinh
tấn, không với biếng nhác. Hãy nhập cuộc với trú niệm, không với
thất niệm. Hãy nhập cuộc với định, không với không định. Hãy nhập cuộc
với trí tuệ, không với liệt tuệ".
Sau khi an trú trong năm pháp này, này Mahànàma, hãy tu tập thêm sáu pháp
nữa.
3. Ở đây, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Như Lai: "Ðây là
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm
Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh,
tâm không bị si ám ảnh, trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Như
Lai. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa
tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ
đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an;
khi thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được
định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt
được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân
với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập Phật tùy niệm.
4. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Pháp: "Khéo thuyết
là pháp Thế Tôn thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí
tự mình giác hiểu". Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy
niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám
ảnh, tâm không bị si ám ảnh, trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên
Pháp. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực có được nghĩa
tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ
đến pháp; khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an;
khi thân khinh an, cảm giác lạc thọ, khi có cảm giác lạc thọ, tâm
được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử
sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được
vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập Pháp tùy
niệm.
5. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Tăng: "Thiện hạnh
là chúng đệ tử Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn,
Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Tịnh hạnh là chúng đệ
tử Thế Tôn, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng đệ tử này của Thế
Tôn là đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời". Này
Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Tăng, trong khi ấy, tâm
không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh;
trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Tăng. Vị Thánh đệ tử, này
Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp
tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan,
hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảm giác lạc
thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi
là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không
bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp
lưu, tu tập Tăng tùy niệm.
6. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Giới của mình: "Không
có bể vụn, không có cắt xén, không có vết nhơ, không có chấm đen,
đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp trước,
đi đến Thiền định". Này Mahànàma, khi nào bậc Thánh đệ tử
tùy niệm Giới... trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Giới...
nhập được pháp lưu, tu tập Giới tùy niệm.
7. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Thí của mình: "Thật
là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta! Vì rằng với quần
chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đình, với tâm không
bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay sạch sẽ,
ưa thích từ bỏ, sẵn sàng, để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật
bố thí". Này Mahànàma, khi nào bậc Thánh đệ tử tùy niệm Thí...
Trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Thí... nhập được pháp lưu, tu
tập tùy niệm Thí.
8. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy tùy niệm Thiên: Có bốn Thiên vương
thiên, có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư Thiên
Tusita (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa lạc, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có
chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin như
vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia.
Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi Ta. Ðầy đủ với giới như vậy, chư
Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia, giới như
vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy
sau khi chết ở chỗ này, đựợc sanh tại chỗ kia. Nghe như Pháp vậy
cũng đầy đủ nơi Ta. Ðầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy sau khi
chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia, thí như vậy cũng có đầy
đủ nơi Ta. Ðầy đủ với tuệ như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở
chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ
nơi Ta". Trong khi vị ấy tùy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ
của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm
không bị sân ám ảnh, không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm vị ấy được
chánh trực nhờ duyên chư Thiên... nhập được pháp lưu, tu tập chư Thiên tùy
niệm.
(II) (13) Mahànàma (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka tại Kapilavatthu, khu
vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, họ Thích Mahànàma mới khỏi bệnh, khỏi
bệnh không bao lâu. Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo đang may y cho
Thế Tôn, nghĩ rằng: "Y làm xong, Thế Tôn sẽ ra đi, bộ
hành..." (Tới đây, kinh này giống như kinh số 12 trước, từ số 1
đến số 2, số 3 cho đến câu...) "Khi có lạc thọ, tâm
được định tĩnh. Tùy niệm Phật này, này Mahànàma, Ông cần phải tu tập
khi đi, Ông cần phải tu tập khi đứng, Ông cần phải tu tập khi ngồi, Ông cần
phải tu tập khi nằm, Ông cần phải tu tập khi chú tâm vào các công
việc, Ông cần phải tu tập khi Ông sống tại trú xứ đầy những con
nít".
4. Lại nữa, này Mahànàma, , Ông cần phải tu tập tùy niệm Pháp... tùy
niệm Tăng... tùy niệm Giới của mình... tùy niệm Thí của mình...
tùy niệm chư Thiên. Có bốn Thiên vương Thiên, có chư Thiên cõi trời Ba
mươi ba; có chư Thiên Dạ ma, có chư Thiên Ðâu suất đà, có chư thiên Hóa
Lạc, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao
hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi thân hoại mạng
chung được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy, cũng có đầy đủ nơi Ta.
Ðầy đủ với nghe Pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia, nghe Pháp như vậy cũng có đầy đủ ở nơi Ta.
Ðầy đủ với thí như vậy... đầy đủ với trí tuệ như vậy, chư Thiên
ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh tại chỗ kia. Trí tuệ như
vậy, cũng có đầy đủ ở nơi Ta. Trong khi vị ấy tùy niệm tín, giới, nghe
pháp, thí, tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị
ám ảnh; trong khi ấy, tâm không bị sân ám ảnh; trong khi ấy, tâm không bị si
ám ảnh; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ duyên chư Thiên. Này
Mahànàma, vị Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín
thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến
pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân
khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tùy
niệm chư Thiên này, này Mahànàma, Ông cần phải tu tập khi đi, Ông cần
phải tu tập khi đứng, Ông cần phải tu tập khi ngồi, Ông cần phải tu tập khi
nằm, Ông cần phải tu tập khi chú tâm vào các công việc, Ông cần
phải tu tập, khi Ông sống tại trú xứ đầy những con nít.
(II) (14) Nandiya
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu
vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, Thế Tôn muốn an cư vào mùa mưa tại Sàvatthi.
Họ Thích Nandiya được nghe: "Thế Tôn muốn an cư vào mùa mưa tại
Sàvatthi". Họ Thích Nandiya suy nghĩ như sau: "Ta hãy đến trú
ở Sàvatthi vào mùa mưa. Tại đây, ta sẽ chăm lo công việc, và thỉnh
thoảng có dịp được yết kiến Thế Tôn". Rồi Thế Tôn
đến trú ở Sàvatthi trong mùa mưa và họ Thích Nandiya cùng đến
trú ở Sàvatthi vào mùa mưa, và tại đấy chăm lo công việc, và thỉnh
thoảng có dịp được yết kiến Thế Tôn.
2. Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỷ-kheo làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng:
"Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra đi". Họ
Thích Nandiya được nghe: "Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ
hành ra đi". Họ Thích Nandiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ
Thích Nandiya bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con nghe nói, nhiều Tỷ-kheo làm y cho Thế Tôn,
nghĩ rằng: "Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra
đi". Bạch Thế Tôn, giữa những người an trú với những an trú khác
nhau, chúng con nên an trú với an trú của ai?
3. Lành thay, lành thay, này Nandiya. như vậy thật xứng đáng cho thiện
nam tử các Ông, sau khi đi đến Thế Tôn đã hỏi như vậy: "Bạch
Thế Tôn, giữa các người an trú với các an trú khác nhau, chúng con nên an
trú với an trú của ai? ". Này Nandiya, hãy nhập cuộc với lòng tin, không
với không có lòng tin. Hãy nhập cuộc với có giới, không phải với không
giới. Hãy nhập cuộc với tinh cần tinh tấn, không với biếng nhác. Hãy nhập
cuộc với trú niệm, không với thất niệm. Hãy nhập cuộc với định,
không với không định. Hãy nhập cuộc với trí tuệ, không với liệt
tuệ.
Sau khi an trú trong sáu pháp, này Nandiya, hãy tu tập thêm nữa năm pháp
này.
4. Ở đây, này Nandiya, Ông hãy tùy niệm Như Lai: "Ðây là
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn". Như vậy, này Nandiya, duyên vào Như Lai, ông hãy an
trú niệm trong nội tâm.
5. Lại nữa, này Nandiya, Ông phải tùy niệm Pháp: "Pháp được
Thế Tôn khéo nói, thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu. Như vậy, này Nandiya, duyên vào Pháp, Ông hãy an trú
niệm trong nội tâm.
6. Lại nữa, này Nandiya, cần phải tùy niệm bạn lành: "Thật có lợi
cho ta! Thật khéo có lợi cho ta, rằng ta có các bạn lành biết thương
mến ta, muốn ta được lợi ích, giáo giới giảng dạy". Như vậy, này
Nandiya, duyên vào bạn lành, Ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
7. Lại nữa, này Nandiya, cần phải tùy niệm thí của mình: "Thật có
lợi cho ta! Thật khéo có lợi cho ta, rằng ta sống an trú với tâm ly cấu
uế, xan tham, cùng với quần chúng bị xan tham ám ảnh, bố thí rộng rãi,
với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa
thích phân phát vật bố thí". Này Nandiya, như vậy duyên vào thí, Ông
hãy an trú niệm trong nội tâm.
8. Lại nữa, này Nandiya, hãy tùy niệm chư Thiên: "Các chư Thiên
ấy, vượt qua sự cộng trú với chư Thiên dùng các món ăn đoàn thực, được
sanh với thân do ý tác thành, các chư Thiên ấy quán thấy tự mình không
có gì nữa phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm. Ví như, này
Nandiya, Tỷ-kheo được phi thời giải thoát quán thấy tự mình không có gì
nữa phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm. Cũng vậy, này
Nandiya, các chư Thiên ấy vượt qua sự cộng trú với chư Thiên dùng các món
ăn đoàn thực, được sanh với thân do ý tác thành, các chư Thiên ấy
quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải làm lại những
gì đã làm. Như vậy, này Nandiya, duyên vào chư Thiên, Ông hãy an trú
niệm trong nội tâm.
Thành tựu với mười một pháp này, này Nandiya, vị Thánh đệ tử từ bỏ
các ác bất thiện pháp, không chấp thủ chúng. Ví như, này Nandiya, một
cái ghè bị úp ngược, nước đã đổ ra, không thể đem hốt lại. Ví như
ngọn lửa đốt một khóm rừng đầy cỏ khô đã được cháy lan tới, không
có trở lui đốt lại vật đã bị cháy. Cũng vậy, này Nandiya, thành tựu với
mười một pháp này, vị Thánh đệ tử từ bỏ các ác bất thiện pháp,
không có chấp thủ chúng.
(VI) (15) Subhùti
1. Rồi Tôn giả Subhùti, cùng với một Tỷ-kheo có lòng tin đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Tôn giả Subhùti đang ngồi một bên:
- Này Subhùti, Tỷ-kheo này tên là gì?
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có lòng tin, con một người nam cư sĩ có lòng
tin, đã vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Này Subhùti, Tỷ-kheo có lòng tin này, con một người nam cư sĩ có lòng
tin, đã xuất gia vì lòng tin, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, người
ấy có được thấy là sống trong những tiêu chuẩn về lòng tin của một người
có lòng tin không?
- Bạch Thế Tôn, nay là thời cho vấn đề này! Bạch Thiện Thệ,
nay là thời cho vấn đề này, để Thế Tôn thuyết các tiêu chuẩn
về lòng tin của một người có lòng tin; nay con sẽ biết được:
"Vị Tỷ-kheo này có được thấy là sống trong những tiêu chuẩn về
lòng tin của một người có lòng tin hay không? "
- Vậy này Subhùti, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Subhùti vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
2. Ở đây, này Subhùti, Tỷ-kheo có giới, sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy
hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các
học pháp. Này Subhùti, vị Tỷ-kheo nào có giới, sống chế ngự với
sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các
học pháp. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người
có lòng tin.
3. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo nghe nhiều, thọ trì những gì
đã nghe, tích tập những gì đã nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh
hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã
thọ trì, đã tụng đọc bằng lời, đã quán sát với ý, đã thể
nhập với chánh kiến. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào nghe nhiều... với
chánh kiến. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một
người có lòng tin.
4. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với
thiện, giao thiệp với thiện. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào làm bạn
với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Này
Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin.
5. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo là người dễ nói, thành tựu những
pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và khéo chấp nhận những lời giáo
giới. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào dễ nói, thành tựu những pháp tác thành
người dễ nói, kham nhẫn và khéo chấp nhận những lời giáo giới. Này Subhùti,
đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin.
6. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo phàm có những công việc gì cần
phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đối với các vị đồng Phạm hạnh, ở đây, vị
ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu sự quán sát các phương tiện, vừa
đủ để làm, vừa đủ để tổ chức. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào, phàm
có những công việc gì... vừa đầy đủ để tổ chức. Này Subhùti, đây
là tiêu chuẩn về lòng tin của mọi người có lòng tin.
7. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo ưa pháp, lời nói dễ thương, hân hoan
lớn trong thắng Pháp, trong thắng Luật. Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo nào ưa
pháp, lời nói dễ thương hân hoan lớn trong thắng Pháp, thắng Luật. Này
Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin.
8. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn đoạn trừ các
pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ lực, kiên
trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các thiện pháp. Này Subhùti, phàm
vị Tỷ-kheo nào sống tinh cần, tinh tấn đoạn trừ các pháp bất thiện,
làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì không bỏ rơi gánh
nặng đối với các thiện pháp. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về
lòng tin của một người có lòng tin.
9. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo đối với bốn Thiền, thuộc tăng
thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không
mệt nhọc, có được không phí sức. Này Subhùti, phàm vị Tỷ-kheo
đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện hiện tại lạc
trú, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được
không phí sức. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một
người có lòng tin.
10. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá
khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, sáu đời, bảy
đời, tám đời, chín đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn
mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều
hoại thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như
thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy,
ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như
vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... vị ấy nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết. Này
Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin.
11. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng
sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh
làm những ác hạnh về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo
tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân
hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn
những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý,
không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên
các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo với
thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị
ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
họ. Như vậy này Subhùti, là tiêu chuẩn về lòng tin của người có
lòng tin.
12. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay
trong hiện tại tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô
lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nầy Subhùti, Tỷ-kheo do đoạn
diệt các lậu hoặc..., sau khi chứng ngộ, chứng đạt và an trú, này Subhùti,
đây là tiêu chuẩn về lòng tin của người có lòng tin.
13. Khi nghe nói vậy, Tôn giả Subhùti bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, các tiêu chuẩn về lòng tin của người có lòng tin
này được Thế Tôn thuyết giảng, là có trong Tỷ-kheo này, và
Tỷ-kheo này được thấy là có chúng. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này là
có giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ uy nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và tu học trong các học pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này
nghe nhiều, thọ trì những gì đã nghe, chất chứa tích tập những gì
đã nghe, những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
Những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã thọ trì, đã tụng đọc
bằng lời, đã quán sát với ý, đã thể nhập với chánh kiến. Bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo này làm bạn với thiện, thân hữu với thiện,
giao thiệp với thiện. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này là người dễ
nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và khéo chấp
nhận những lời giáo giới. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này, phàm có những
công việc gì cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đối với các vị đồng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu sự quán sát các
phương tiện vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo này ưa pháp, lời nói dễ thương, hân hoan lớn trong thắng
Pháp, thắng Luật. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này sống tinh cần tinh tấn,
đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ
lực, kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các thiện pháp. Bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo này, đối với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm,
hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân.... rõ
biết các chúng sanh, tùy theo hạnh nghiệp của họ. Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo này do đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng đạt và an
trú. Bạch Thế Tôn, các tiêu chuẩn về lòng tin này được Thế Tôn
thuyết giảng là có trong Tỷ-kheo này. Và Tỷ-kheo này được thấy
là có chúng.
14. Lành thay, lành thay này Subhùti! Vậy này Subhùti, Thầy hãy an trú với
Tỷ-kheo, có lòng tin này. Khi nào, này Subhùti, Thầy muốn yết kiến
Như Lai, hãy cùng với Tỷ-kheo có lòng tin này đi đến yết kiến
Như Lai.
(V) (16) Từ
1. Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập,
được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ
địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời
được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?
2. Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng, được loài người ái mộ, được
phi nhân ái mộ, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc
chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn
ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả); được sanh lên
Phạm thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập,
được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ
địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời
được chờ đợi là mười một lợi ích.
(VI) (17) Gia Chủ Dasama
1. Một thời, Tôn giả Ananda trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka. Lúc bấy
giờ, gia chủ Dasama, trú ở thành Atthaka, đã đi đến Pàtiliputta vì một
vài công việc. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka đi đến một
Tỷ-kheo, sau khi đến, thưa với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa Tôn giả, Tôn giả Ananda nay trú ở đâu? Thưa Tôn giả, con muốn
yết kiến Tôn giả Ananda.
- Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka.
2. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka, sau khi làm công việc xong ở
Pàtiliputta, đi đến Vesàli, Beluvagàmaka, đi đến Tôn giả Ananda, sau
khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda:
- Có một pháp nào, thưa Tôn giả Ananda được Thế Tôn, bậc đã
biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khéo nói, chính ở nơi
đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát
tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa
được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa
đạt được?
- Này Gia chủ, có một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết... hay đạt
được vô thượng an ổn khỏi các ách khổ chưa đạt được.
- Nhưng thưa Tôn giả Ananda, một pháp ấy là gì, được Thế Tôn, bậc
đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khéo thuyết,
chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các
lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách chưa đạt được?
3. Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm, có tứ. Vị ấy quán sát như sau: "Thiền thứ nhất này thuộc tăng
thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái gì thuộc tăng
thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri: "Cái gì là
vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được
sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt
các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với
Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh,
tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui thế giới ấy nữa. Này
Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã
thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách
chưa đạt được.
4. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo, làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm,... và an trú Thiền thứ ba... và
an trú Thiền thứ tư. Vị ấy quán sát như sau: "Thiền thứ tư này
thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái gì...
không còn phải trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp
này, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
5. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với từ, an trú
biến mãn một phương; như vậy phương thứ hai; như vậy phương thứ ba;
như vậy phương thứ tư; như vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề
ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến
mãn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị
ấy quán sát như sau: "Từ tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác
thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái gì... không còn trở lui thế
giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã
biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách chưa đạt được.
6. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với bi... với tâm câu
hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả, an trú biến mãn một phương;
như vậy phương thứ hai; như vậy phương thứ ba; như vậy phương thứ tư; như
vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả,
quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau: "Xả
tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng
tâm". Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ,
đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt
được.
7. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn các sắc
tưởng, chấm dứt các tưởng chướng ngại, không tác ý các tưởng sai
biệt, nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú
Không vô biên xứ. Vị ấy quán sát như sau: "Chứng đắc Không vô biên xứ
này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái
gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp,
được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
8. Lại nữa, này Gia chủ, sau khi vượt Không vô biên xứ một cách hoàn
toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô
biên xứ... sau khi vượt Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng:
"Vô sở hữu xứ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy quán
sát như sau: "Chứng đắc Vô sở hữu xứ này thuộc tăng thượng tác thành,
thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới
ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết,
bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách chưa đạt được.
9. Khi nghe nói vậy, gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn giả
Ananda:
- Thưa Tôn giả Ananda, ví như một người tìm một cái cửa vào chỗ chôn
cất, trong một lúc, tìm ra được mười một cái cửa. Cũng vậy, thưa Tôn giả,
trong khi đi tìm một cửa bất tử, trong một lúc, con tìm ra mười một cái cửa
bất tử. Ví như, thưa Tôn giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và
nhà ấy bị cháy, người ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể
được an toàn cho mình. Cũng vậy, thưa Tôn giả, với mười một cửa bất tử
này, con có thể tạo được sự an toàn cho con với chỉ một cửa bất tử.
Thưa Tôn giả, các ngoại đạo này sẽ tìm cầu tài sản của sư cho sư, tại sao
con lại không đảnh lễ Tôn giả Ananda?
10. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành phố Atthaka mời họp các Tỷ-kheo
chúng ở Vesàli và Pàtaputta, với các món ăn thượng vị loại cứng và loại
mềm, tự tay dâng cúng cho đến khi chúng Tăng được thỏa mãn, và
mỗi Tỷ-kheo cúng một đôi y. Nhưng riêng đối với Tôn giả Ananda, vị
ấy cúng ba y đầy đủ và xây dựng một ngôi tinh xá giá trị 500 đồng
tiền.
(VII) (18) Người Chăn Bò
1. Thành tựu mười một chi phần, này các Tỷ-kheo, một người chăn bò
không có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò được tăng trưởng.
Thế nào là mười một?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò không biết sắc,
không thiện xảo trong tướng; không trừ khử trứng ruồi; không băng bó
vết thương; không có xông khói; không biết chỗ nước có thể
lội qua; không biết chỗ nước uống được; không biết đường;
không thiện xảo chỗ bò có thể ăn; nặn sữa đến kiệt
quệ; đối với các con bò đực, con bò cha, con bò lãnh đạo, không có
đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này, người chăn bò không có thể lãnh
đạo đàn bò và khiến đàn bò được tăng trưởng.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười một pháp, Tỷ-kheo
không có thể được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong pháp
luật này. Thế nào là mười một?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết sắc; không
thiện xảo trong tướng; không trừ khử trứng ruồi; không băng bó vết
thương; không có xông khói; không biết chỗ nước có thể lội qua;
không biết chỗ nước uống được; không biết đường; không
thiện xảo chỗ bò có thể ăn; nặn sữa đến kiệt quệ;
đối với với Tỷ-kheo trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha
trong Tăng chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, không có đặc biệt kính
trọng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết
sắc?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, phàm sắc gì do bốn đại hay
do bốn đại tác thành, vị ấy không như thật quán tri sắc ấy. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết sắc. Và này các Tỷ-kheo,
như thế nào là Tỷ-kheo không thiện xảo trong các tướng?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật quán tri
nghiệp tướng của người ngu, nghiệp tướng của người trí. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không thiện xảo trong các tướng. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không trừ khử trứng ruồi?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với dục tầm được
khởi lên, chấp nhận, không từ bỏ, không tẩy sạch, không chấm dứt, không
đưa đến không thể tái sanh. Ðối với sân tầm được khởi lên...
đối với hại tầm được khởi lên, chấp nhận, không từ bỏ, không tẩy sạch,
không chấm dứt, không đưa đến không thể tái sanh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không trừ khử trứng các loài
ruồi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không có băng bó vết
thương?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, nắm giữ
tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến tham, ưu,
các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo không tự chế ngự nguyên
nhân ấy, không hộ trì nhãn căn, không thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai
nghe tiếng... khi mũi ngửi hương...... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc... khi ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự,
khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo không
chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự hộ
trì ý căn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không băng bó vết thương.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không xông khói?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thuyết pháp rộng
rãi cho các người khác, như đã được nghe, như đã được hiểu
biết.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không xông khói. Và này các
Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không biết chỗ nước có
thể lội qua.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo
nghe nhiều, được trao truyền giáo điển, là bậc trì Pháp, trì
Luật, trì toát yếu. Tỷ-kheo thỉnh thoảng đến thăm những vị ấy,
nhưng không đặt câu hỏi, không thẩm vấn: "Thưa Tôn giả, vấn đề
này thế nào? Nghĩa vấn đề này là gì? " Các vị Tôn giả ấy
không có khai mở những gì chưa khai mở, không có hiển lộ những gì chưa
hiển hộ, không có tẩy sạch sự nghi ngờ đối với các pháp còn chỗ
nghi ngờ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết chỗ nước có
thể lội qua được. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
không biết chỗ nước uống?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi Pháp và Luật
được thuyết giảng do Như Lai thuyết giảng, không được nghĩa tín
thọ, không được pháp tín thọ, không
được hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo không biết chỗ nước uống. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo không biết con đường?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật quán tri con
đường Thánh đạo tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo không rõ biết con đường. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo không thiện xảo trong các chỗ bò ăn cỏ?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật quán tri
Bốn niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thiện xảo
trong các chỗ bò ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là
Tỷ-kheo nặn sữa bò cho đến khô kiệt?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các tín nam, tín nữ cúng dường,
đem lại cúng dường hết sức đầy đủ các vật dụng như y áo, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, ở đây Tỷ-kheo không
biết thâu nhận vừa phải.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo nặn sữa bò đến khô
kiệt. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào, đối với các Tỷ-kheo
Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc
lãnh đạo trong Tăng chúng, không có đặc biệt kính trọng?
15. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo nào là bậc Trưởng
lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc lãnh đạo
trong Tăng chúng, với các vị ấy, không có đối xử với từ thân hành, trước
mặt và sau lưng... với từ khẩu hành... với từ ý hành, trước mặt và sau
lưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo Trưởng
lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, là bậc cha trong Tăng chúng, là bậc lãnh
đạo trong Tăng chúng, đối với các vị ấy không có đặc biệt tôn kính.
Thành tựu với mười một pháp này, Tỷ-kheo không có thể tăng
trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong Pháp và Luật này.
16. Thành tựu với mười một chi phần, này các Tỷ-kheo, người chăn bò
có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò được tăng trưởng.
Thế nào là mười một?
17. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò biết sắc; thiện
xảo trong tướng; trừ khử trứng ruồi; băng bó vết thương; có xông khói;
biết chỗ nước có thể lội qua; biết chỗ nước uống được;
biết đường; thiện xảo chỗ bò có thể ăn; không nặn sữa
đến kiệt quệ; đối với các con bò đực, con bò cha, con bò lãnh
đạo, có đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này, người chăn bò có thể lãnh đạo
đàn bò và khiến đàn bò được tăng trưởng.
18. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười một pháp,
Tỷ-kheo có thể được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong
Pháp và Luật này. Thế nào là mười một?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết sắc; thiện xảo
trong tướng; trừ khử trứng ruồi; băng bó vết thương; có xông khói;
biết chỗ nước có thể lội qua; biết chỗ nước uống được;
biết đường; thiện xảo chỗ bò có thể ăn; không nặn sữa
đến kiệt quệ; đối với với Tỷ-kheo trưởng lão, kỳ cựu, xuất
gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, có
đặc biệt kính trọng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết sắc?
20. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, phàm sắc gì do bốn đại
hay do bốn đại tác thành, vị ấy như thật quán tri sắc ấy. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết sắc. Và này các Tỷ-kheo, như
thế nào là Tỷ-kheo thiện xảo trong các tướng?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật quán tri nghiệp
tướng của người ngu, nghiệp tướng của người trí. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thiện xảo trong các tướng. Và này các
Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo trừ khử trứng ruồi?
22. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với dục tầm được
khởi lên, không chấp nhận, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đưa đến không
thể tái sanh. Ðối với sân tầm được khởi lên... đối với hại tầm
được khởi lên, không chấp nhận, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đưa đến
không thể tái sanh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trừ khử trứng các loài ruồi.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo băng bó vết thương?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến
tham, ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự
nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe
tiếng... khi mũi ngửi hương...... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc... khi ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không
nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn được chế ngự,
khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự
nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo băng bó vết thương. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo xông khói?
24. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thuyết pháp rộng rãi cho
các người khác, như đã được nghe, như đã được hiểu biết.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo xông khói. Và này các
Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể
lội qua?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo
nghe nhiều, được trao truyền giáo điển, là bậc trì Pháp, trì
Luật, trì toát yếu. Tỷ-kheo thỉnh thoảng đến thăm những vị ấy,
đặt câu hỏi, thẩm vấn: "Thưa Tôn giả, vấn đề này thế nào?
Nghĩa vấn đề này là gì? " Các vị Tôn giả ấy có khai mở những
gì chưa khai mở, hiển lộ những gì chưa hiển lộ, tẩy sạch nghi vấn
trong những vấn đề còn nghi vấn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể
lội qua. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết
chỗ nước uống được?
26. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi Pháp và Luật
được thuyết giảng do Như Lai thuyết giảng, được nghĩa tín thọ,
được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ
đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết chỗ
nước uống được. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết con
đường?
27. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật quán tri con
đường Thánh đạo tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo rõ biết con đường. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo thiện xảo trong các chỗ bò ăn cỏ?
28. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật quán tri Bốn
niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiện xảo trong các
chỗ bò ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo nặn
sữa bò còn để lại sữa?
29. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các tín nam, tín nữ cúng dường,
đem lại hết sức đầy đủ các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, ở đây Tỷ-kheo biết thâu nhận vừa
phải.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo nặn sữa bò còn để lại
sữa. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào, đối với các Tỷ-kheo
Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc
lãnh đạo trong Tăng chúng, có đặc biệt kính trọng?
30. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo nào là bậc Trưởng
lão, các bậc kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc
lãnh đạo trong Tăng chúng, với các vị ấy, có đối xử với từ thân hành,
trước mặt và sau lưng... với từ khẩu hành... với từ ý hành, trước mặt
và sau lưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo Trưởng
lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, là bậc cha trong Tăng chúng, là bậc lãnh
đạo trong Tăng chúng, với các vị ấy, có đặc biệt tôn kính.
Thành tựu với mười một pháp này, Tỷ-kheo có thể tăng
trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong Pháp và Luật này.
(VIII) (19) Thiền Ðịnh (1)
1. Bấy giờ có một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
các Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một Tỷ-kheo chứng được Thiền
định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất; trong
nước, không tưởng đến nước; trong lửa, không tưởng đến lửa; trong
gió, không tưởng đến gió; trong Không vô biên xứ, không tưởng đến
Không vô biên xứ; trong Thức vô biên xứ, không tưởng đến Thức vô biên
xứ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng đến Vô sở hữu xứ; trong Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong
thế giới hiện tại, có thể không tưởng đến thế giới
hiện tại; trong thế giới đời sau, có thể không tưởng đến
thế giới đời sau; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng?
- Này các Tỷ-kheo, có thể như vậy, một Tỷ-kheo khi chứng được
Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến
đất; trong nước, không tưởng đến nước; trong lửa, không tưởng đến
lửa; trong gió, không tưởng đến gió; trong Không vô biên xứ, không
tưởng đến Không vô biên xứ; trong Thức vô biên xứ, không tưởng
đến Thức vô biên xứ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng đến Vô sở
hữu xứ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tưởng đến Phi tưởng phi
phi tưởng xứ; trong thế giới hiện tại, không tưởng đến thế
giới hiện tại; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế
giới đời sau; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào một Tỷ-kheo khi chứng được
Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến
đất...; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời
sau; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tưởng như sau: "Ðây là
an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất
cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi chứng được
Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến
đất; trong nước, không tưởng đến nước...; trong thế giới đời sau,
không tưởng đến thế giới đời sau. Và trong những gì được thấy,
được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm
cầu, được ý suy tư, tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng. Tuy
vậy vị ấy vẫn có tưởng.
(IX) (20) Thiền Ðịnh (2)
1. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất; trong nước, có thể không tưởng đến nước; trong lửa, có thể không tưởng đến lửa; trong gió, có thể không tưởng đến gió; trong Không vô biên xứ, có thể không tưởng đến Không vô biên xứ; trong Thức vô biên xứ, có thể không tưởng đến Thức vô biên xứ; trong Vô sở hữu xứ, có thể không tưởng đến Vô sở hữu xứ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có thể không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong thế giới hiện tại, có thể không tưởng đến thế giới hiện tại; trong thế giới đời sau, có thể không tưởng đến thế giới đời sau. Phàm cái gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng?
2. Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như
vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất...; được ý
suy tư. Tại đấy, vị ấy không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng.
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo khi chứng được
Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến
đất...; được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy không có tưởng. Tuy vậy vị ấy
vẫn có tưởng?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo,. Tỷ-kheo tưởng như sau:
""Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả
hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn
diệt, Niết-bàn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi
chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không
tưởng đến đất; trong nước, không tưởng đến nước...; được ý
suy tư, tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có
tưởng.
(X) (21) Thiền Ðịnh (3)
1. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Tôn giả Sàriputta... (như
kinh số 7, chương mười pháp, chỉ khác đây là Tôn giả Sàriputta).
(XI) (22) Thiền Ðịnh (4)
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta nói với các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền, có thể chăng một Tỷ-kheo khi chứng được
Thiền định... được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể không có
tưởng; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Thưa Hiền giả, chúng tôi từ xa đi đến để được biết
ý nghĩa của lời nói này từ Tôn giả Sàriputta. Lành thay, nếu ý
nghĩa lời nói này được Tôn giả Sàriputta nói lên. Sau khi nghe Tôn giả
Sàriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này chư Hiền, hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền giả, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta.
Tôn giả Sàriputta nói như sau:
2. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như
vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng đến đất... được ý
suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng. Tuy vậy, vị ấy vẫn có
tưởng.
- Như thế nào, thưa Hiền giả Sàriputta, một Tỷ-kheo khi chứng
được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng
đến đất... được ý suy tư; tại đấy, vị ấy có thể không có
tưởng; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo tưởng như sau... (như số 20
kinh trước)... tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
III. Phẩm Ba : Tổng Kết
(I) (23) Người Chăn Bò
1. Này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười một chi phần, người chăn bò không có thể là người lãnh đạo bò và đưa đàn bò đến tăng trưởng. Thế nào là mười một?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò không biết sắc; không thiện xảo trong tướng; không trừ khử trứng ruồi; không băng bó vết thương; không có xông khói; không biết chỗ nước có thể lội qua; không biết chỗ nước uống được; không biết đường; không thiện xảo chỗ bò có thể ăn; nặn sữa đến kiệt quệ; đối với các con bò đực, bậc cha đàn bò, bậc lãnh đạo đàn bò, không có đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này, người chăn bò không có thể lãnh đạo đàn bò và không thể khiến đàn bò được tăng trưởng.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười một pháp, vị Tỷ-kheo không có thể trú tùy quán vô thường trong con mắt... không có thể trú tùy quán khổ trong con mắt... không có thể trú tùy quán vô ngã trong con mắt... không có thể trú tùy quán hoại diệt trong con mắt... không có thể trú tùy quán hủy diệt trong con mắt.. không có thể trú tùy quán ly tham trong con mắt... không có thể trú tùy quán đoạn diệt trong con mắt... không có thể trú tùy quán từ bỏ trong con mắt... trong lỗ tai... trong lỗ mũi... trong lưỡi... trong thân... trong ý... trong các sắc... trong các tiếng... trong các hương... trong các vị... trong các xúc... trong các pháp... trong nhãn thức... trong nhĩ thức... trong tỷ thức.... trong thiệt thức... trong thân thức... trong ý thức... trong nhãn xúc... trong nhĩ xúc... trong tỷ xúc.... trong thiệt xúc... trong thân xúc... trong ý xúc... trong thọ do nhãn xúc sanh... trong thọ do nhĩ xúc sanh... trong thọ do tỷ xúc sanh... trong thọ do thiệt xúc sanh... trong thọ do thân xúc sanh... trong thọ do ý xúc sanh... trong sắc tưởng... trong thanh tưởng... trong hương tưởng... trong vị tưởng... trong xúc tưởng... trong pháp tưởng... trong sắc tư... trong thanh tư... trong hương tư... trong vị tư... trong xúc tư... trong pháp tư... trong sắc ái... trong thanh ái... trong hương ái... trong vị ái... trong xúc ái... trong pháp ái... trong sắc tầm... trong thanh tầm... hương tầm... trong vị tầm... trong xúc tầm... trong pháp tầm... trong sắc tứ... trong thanh tứ... trong hương tứ... trong vị tứ... trong xúc tứ... trú tùy quán vô thường trong pháp tứ... trú tùy quán khổ... trú tùy quán vô ngã... trú tùy quán hoại diệt... trú tùy quán hủy diệt... trú tùy quán ly tham... trú tùy quán đoạn diệt... trú tùy quán từ bỏ.
4. Thành tựu mười một pháp, này các Tỷ-kheo, người chăn bò có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò tăng trưởng. Thế nào là mười một?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò biết sắc...
6. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với mười một pháp, Tỷ-kheo có thể trú tùy quán vô thường trong con mắt... có thể trú tùy quán từ bỏ.
(II) (24) Tham Ái (1)
1. Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, mười một pháp cần phải
tu tập. Thế nào là mười một?
2. Thiền thứ nhất, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư,
Từ tâm giải thoát, Bi tâm giải thoát, Vỷ tâm giải thoát, Xả tâm giải
thoát, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.
Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, mười một pháp cần phải tu
tập.
(III) (25) Tham Ái (2)
1. Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, để liễu tri, để
liễu diệt, để đoạn tận, để hoại diệt, để hủy diệt,
để ly tham, để đoạn diệt... để xả ly, để từ bỏ... mười
một pháp cần phải tu tập.
2. Ðể thắng tri sân... si... phẫn nộ... hiềm hận.... gièm pha... não
hại... tật đố... xan tham... man trá... lừa đảo.... cứng đầu.... hung hăng...
mạn... quá mạn... say đắm... phóng dật... để liễu tri, để liễu
diệt, để đoạn tận, để hoại diệt, để hủy diệt,
để ly tham, để đoạn diệt, để xả ly, để từ bỏ... mười
một pháp này cần phải tu tập.
Thế Tôn thuyết như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy.
[Hết Kinh Tăng Chi]
I. Phẩm Ðáng Ðược Cung Kính
(I) (1) Ðáng Ðược Cung Kính (1)
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, Jetavana, tại khu vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
2. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không có
ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe
tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
khi ý biết pháp, không có ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh
niệm tỉnh giác.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là vô thượng phước điền ở đời.
Thế Tôn thuyết như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín
thọ lời Thế Tôn dạy.
(II) (2) Ðáng Ðược Cung Kính (2)
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chứng được các loại thần
thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một
thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như
đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong
nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền, ngồi kiết già hay
đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân
bay đến Phạm thiên.
3. Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, nghe được hai loại tiếng, chư
Thiên và loài Người ở xa và gần.
4. Sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài Người với tâm của
mình, vị ấy rõ biết như sau: "Tâm có tham, rõ biết là tâm có
tham, hay tâm ly tham... hay tâm có sân... hay tâm ly sân... hay tâm có si... hay
tâm ly si... hay tâm chuyên chú... hay tâm tán loạn... hay đại hành tâm... hay
không phải đại hành tâm... hay tâm chưa vô thượng... hay tâm vô thượng...
hay tâm Thiền định... hay tâm không Thiền định... hay tâm giải
thoát... hay tâm không giải thoát, rõ biết là tâm không giải thoát".
5. Nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm
ngàn đời; nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và
thành kiếp; vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên
như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này,
thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị
ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và
các chi tiết.
6. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết
của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao
sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân,
ngữ, ý, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh này làm những
thiện hạnh về thân, ngữ, ý, không phỉ báng các bậc thánh, theo
chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi trời, cõi
đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn, thấy sự sống chết của chúng
sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là vô thượng phước điền ở đời.
(III) (3) Các Căn
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
2. Với tín căn, với tấn căn, với niệm căn, với định căn, với tuệ
căn, do đoạn tận các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, ngay trong hiện
tại chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời.
(IV) (4) Các Lực
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là sáu?
2. Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, do đoạn tận
các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, ngay trong hiện tại, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là vô thượng phước điền ở đời.
(V) (5) Con Ngựa Thuần Chủng (1).
1- Thành tựu sáu chi phần, này các Tỷ-kheo, một con ngựa hiền
thiện, thuần chủng của vua, xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua,
và được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần chủng
của vua kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham
nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc, và đầy đủ dung sắc.
Thành tựu sáu chi phần này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa hiền
thiện, thuần chủng của vua, xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua,
và được xem là một biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu sáu pháp, Tỷ-kheo đáng được cúng dường... là ruộng phước
vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc, kham nhẫn
các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc, kham
nhẫn các pháp.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính... là ruộng phước vô thượng ở đời.
(VI - VII) (6 - 7) Con Ngựa Thuần Chủng (2)
(Như kinh trên, số 5, chỉ thay đổi "đầy đủ dung sắc", với
"đầy đủ sức mạnh" cho số 6, và với "đầy đủ tốc lực" cho
số 7).
(VIII) (8) Vô Thượng
1. - Có sáu vô thượng này, này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu?
2. Kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi đắc vô thượng, học vô
thượng, hành vô thượng, tùy niệm vô thượng. Này các Tỷ-kheo, có
sáu vô thượng này.
(IX) (9) Tùy Niệm Xứ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu?
2. Tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm
Giới, tùy niệm Thí, tùy niệm Thiên.
Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm này.
(X) (10) Mahànàma
Một thời, Thế Tôn trú giữa các vị Thích-ca, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
- Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, đời sống gì vị ấy sống một cách sung mãn?
- Này Mahànàma, Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, với nếp sống này, sống một cách sung mãn.
(1) Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật".
(2) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những bậc trí tự mình giác hiểu!". Này Mahànama, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Pháp. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Pháp".
(3) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng đệ tử Thế Tôn này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm chúng Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Tăng. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Tăng. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Tăng".
(4) Lại nữa, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm các Giới của mình: "Giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không có uế tạp, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Giới. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Giới. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Giới".
(5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình niệm Thí của mình: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta, vì rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đình, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí". Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm bố thí, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Thí. Và này Mahànama, Thánh đệ tử với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến Thí. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thí".
(6) Lại nữa, này Mahànama, Thánh đệ tử tu tập tùy niệm Thiên: "Có chư Thiên bốn Thiên vương Thiên, có chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư Thiên Tusità (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với Thí như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy đủ với Tuệ như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng đầy đủ nơi ta". Khi vị ấy niệm Tín, Giới, nghe Pháp, Thí và Tuệ của tự mình và chư Thiên ấy; trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào chư Thiên. Và này Mahànàma, Thánh đệ tử với tâm chánh trực được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: "Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Thiên".
Này Mahànàma, vị Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, vị ấy sống một cách sung mãn với nếp sống này.
II. Phẩm Cần Phải Nhớ
(I) (11) Cần Phải Nhớ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp cần phải ghi nhớ này. Thế nào là
sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú thân làm từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú lời nói từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú ý nghĩ từ đối với
các đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các lợi dưỡng đúng
pháp, nhận được đúng pháp, cho đến những đồ vật nhận được chỉ trong
bình bát, vị ấy không phải là người không san sẻ các đồ vật nhận được
như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các đồng Phạm hạnh có giới
đức. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Giới Luật không
bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị uế
nhiễm, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đi
đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu Giới Luật trong các Giới
Luật ấy đối với các đồng Phạm hạnh trước mặt lẫn sau lưng.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến thuộc bậc Thánh,
có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chơn chánh diệt
tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến với các tri kiến như
vậy đối với các đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp cần phải ghi nhớ.
(II) (12) Cần Phải Nhớ (2)
1. - Có sáu pháp cần phải ghi nhớ này, này các Tỷ-kheo, tạo thành
tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến
không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú thân làm từ đối với
các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt lẫn sau lưng. Ðây là pháp cần phải ghi
nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng,
không tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú lời nói từ... ý
nghĩ từ đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Ðây
là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, không tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đối với các lợi dưỡng
đúng pháp, nhận được đúng pháp, cho đến những đồ vật nhận được
chỉ trong bình bát, vị ấy không phải là người không san sẻ các đồ vật
nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng Phạm
hạnh có giới đức. Ðây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo
thành tương kính, đưa đến hòa đồng, không tranh luận, hòa hợp, nhất
trí.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đối với các Giới Luật
không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị
uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đi
đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu Giới Luật trong các Giới
Luật ấy đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các tri kiến thuộc
bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chơn chánh
diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến với các tri
kiến như vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau
lưng.
Ðây là sáu pháp cần phải ghi nhớ, này các Tỷ-kheo, tạo thành tương
ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh
luận, hòa hợp, nhất trí.
(III) (13) Xuất Ly Giới
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp xuất ly giới này. Thế nào là
sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị tâm
ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, Hiền
giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế
Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự
kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ
tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an
trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị, an trú;
sự kiện như vậy không xảy ra, này Hiền giả, cái này có khả năng
giải thoát sân tâm, tức là từ tâm giải thoát".
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta
đã tu tập, bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn
ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như
vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên
tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này
Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như
vậy. Ai tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn
ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này
có khả năng giải thoát hại tâm, tức là bi tâm giải thoát".
4. Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành
căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn
ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như
vậy. Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc
Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này
Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như
vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ
xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất
lạc tâm vẫn ngự trị, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền
giả, cái này có khả năng giải thoát bất lạc tâm, tức là hỷ tâm giải
thoát".
5. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập
xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị tâm
ta". Vị ấy cần được nói: "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ nói
như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật
không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện
không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm
giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú,
chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị an trú; sự
kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải
thoát tham tâm, tức là xả tâm giải thoát".
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu
tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm
thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, thức của ta
vẫn tùy niệm tướng". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ
có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn.
Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như
vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không
phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm
thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần,
thức vẫn sẽ tùy niệm tướng, an trú; sự kiện không xảy ra như vậy.
Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tất cả tướng, tức là vô
tướng tâm giải thoát".
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nói như sau: "Tôi
đã từ bỏ tư tưởng "Tôi là". Tôi không có tùy quán "Cái này
là tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do sự xâm chiếm tâm tôi và an
trú". Vị ấy cần được nói như sau: "Chớ có như vậy, Hiền giả
chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn
như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự
kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Với ai đã từ
bỏ tư tưởng "Tôi là", với ai không có tùy quán "Cái này là
tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do dự xâm chiếm tâm người ấy và an
trú; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả
năng giải thoát mũi tên nghi hoặc do dự, tức là sự nhổ lên kiêu mạn
"Tôi là"".
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp xuất ly giới.
(IV) (14) Hiền Thiện
1. Tại đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Hiền giả Tỷ-kheo" - "Thưa Hiền giả".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như
sau:
2. - Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như
vậy, như vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không
được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện! Và
như thế nào, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy,
như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không
được hiền thiện?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo ưa công việc, thích
thú công việc, chuyên tâm ưa thích công việc; ưa nói chuyện,
thích thú nói chuyện, chuyên tâm ưa thích nói chuyện; ưa ngủ, thích
thú ngủ, chuyên tâm ưa thích ngủ; ưa hội chúng, thích thú hội chúng, chuyên
tâm ưa thích hội chúng; ưa liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao
thiệp, chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; ưa hý luận, thích
thú hý luận, chuyên tâm ưa thích hý luận. Như vậy, này các Hiền
giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không
được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện.
Này các Hiền giả, đây được gọi là Tỷ-kheo ái lạc có thân,
không từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
4. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như
vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung được hiền
thiện, khi mệnh chung được hiền thiện. Và như thế nào, này
các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm
chung được hiền thiện, khi mạng chung được hiền thiện?
5. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo không ưa công việc,
không thích thú công việc, không chuyên tâm ưa thích công việc; không
ưa nói chuyện, không thích thú nói chuyện, không chuyên tâm ưa thích
nói chuyện; không ưa ngủ, không thích thú ngủ, không chuyên tâm ưa thích
ngủ; không ưa hội chúng, không thích thú hội chúng, không chuyên tâm ưa
thích hội chúng; không ưa liên lạc giao thiệp, không thích thú liên lạc
giao thiệp, không chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; không ưa
hý luận, không thích thú hý luận, không chuyên tâm ưa thích hý
luận. Như vậy, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy,
như vậy, khi lâm chung được hiền thiện, khi mệnh chung được
hiền thiện. Này các Hiền giả, đây được gọi là Tỷ-kheo
ái lạc Niết-bàn, từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
Ai chuyên ưa hý luận,
Như thích thú hý luận,
Ði ngược lại Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.
Ai từ bỏ hý luận,
Ưa thích không hý luận.
Thuận hướng đến Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.
(V) (15) Không Hối Hận
1. Ở nơi đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền, Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như vậy,
do nếp sống như vậy, khi lâm chung có hối hận, khi mệnh chung có hối
hận. Và như thế nào, này các Hiền giả, Tỷ-kheo sống nếp sống
như vậy, như vậy, khi lâm chung có hối hận, khi mệnh chung có hối hận?
2.... (Giống như kinh số 14, chỉ khác là thay thế không hiền
thiện bằng có hối hận, thay thế có hiền thiện bằng không hối
hận)...
(VI) (16) Cha Mẹ Của NakuLa (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu,
rừng Bhesakàla, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, gia chủ, cha của Nakula bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi nữ gia chủ, mẹ của Nakula nói
với cha của Nakula như sau:
2. -Thưa Gia chủ, chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến. Thưa
Gia chủ, đau khổ là người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến.
Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung còn mong cấu ái luyến. Thưa
Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta
mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa".
Thưa Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, tôi khéo léo dệt vải
và chải lông cừu. Thưa Gia chủ, sau khi Gia chủ mệnh chung, tôi có thể
nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh
chung với tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau khổ, này Gia chủ, là người khi
mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi
mệnh chung tâm còn mong cấu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ Gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ đi đến một gia đình khác". Thưa
Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, Gia chủ cũng đã biết,
trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành
Phạm hạnh như thế nào. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với
tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh
chung còn mong cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung
còn mong cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không còn muốn yết kiến Thế
Tôn, sẽ không còn muốn yết kiến chúng Tăng". Thưa Gia chủ, chớ
có suy nghĩ như vậy! Sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết
kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng
nhiều hơn. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong
cầu ái luyến! Ðau khổ, này Gia chủ, là người khi mệnh chung, còn mong
cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không giữ giới một cách đầy đủ".
Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các
nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ Giới Luật một
cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy. Nếu ai có nghi ngờ hay
phân vân, hiện nay, Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá
Sấu, rừng Bhesakàla, vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế
Tôn và hỏi. Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu
ái luyến! Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong
cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula không có chứng được nội tâm tịnh chỉ". Thưa Gia chủ, chớ có suy
nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ
mặc áo trắng của Thế Tôn còn chứng được nội tâm tịnh chỉ, tôi sẽ là
một trong những vị ấy. Nếu ai có nghi ngờ hay phân vân, hiện nay
Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu, rừng Bhesakàla,
vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế Tôn và hỏi. Do vậy,
thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu ái luyến! Ðau
khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung, tâm còn mong cầu ái luyến.
Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái luyến.
Thưa Gia chủ, Gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của
Nakula, trong Pháp và Luật này không đạt được thể nhập, không đạt
được an trú, không đạt được thoải mái, không vượt khỏi nghi hoặc, không
rời được do dự, không đạt được vô úy, còn phải nhờ người khác sống
trong lời dạy đức Bổn Sư". Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa
Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của
Thế Tôn, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an
trú, đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt
được vô úy, không phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư,
tôi sẽ là một trong những người ấy. Nếu có ai có nghi ngờ hay phân vân,
hiện nay Thế Tôn đang ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Cá Sấu, rừng
Bhesakàla, vườn Lộc Uyển, người ấy hãy đi đến Thế Tôn và hỏi.
Do vậy, thưa Gia chủ, chớ có mệnh chung với tâm còn mong cầu ái luyến!
Ðau khổ, thưa Gia chủ, là người khi mệnh chung, tâm còn mong cầu ái
luyến. Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung tâm còn mong cầu ái
luyến.
3. Rồi cha của Nakula được nữ gia chủ, mẹ của Nakula giáo giới với lời
giáo giới này, bệnh hoạn liền khi ấy được khinh an và gia chủ, cha
của Nakula thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là bệnh ấy
của gia chủ, cha của Nakula. Rồi gia chủ, cha của Nakula được lành bệnh,
sau khi lành bệnh không bao lâu, chống gậy đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
gia chủ, cha của Nakula đang ngồi xuống một bên:
4. - Thật lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Thật khéo lợi ích thay cho Ông,
này Gia chủ! Ðược nữ gia chủ, mẹ của Nakula với lòng từ mẫn, vì muốn hạnh
phúc, đã giáo giới, đã khuyên dạy Ông. Cho đến khi nào, này Gia chủ, Ta
còn có những đệ tử gia chủ mặc áo trắng gìn giữ Giới Luật viên mãn,
nữ gia chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Cho đến khi nào, này
Gia chủ, Ta còn có những đệ tử gia chủ mặc áo trắng chứng được nội
tâm tịnh chỉ, nữ gia chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Cho
đến khi nào, này Gia chủ, Ta còn có những đệ tử gia chủ mặc áo
trắng, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an trú,
đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt được vô
úy, không còn phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư, nữ gia
chủ, mẹ của Nakula là một trong những vị ấy. Thật lợi ích thay cho Ông, này
Gia chủ! Thật khéo lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ, được nữ gia chủ, mẹ
của Nakula với lòng từ mẫn, vì muốn hạnh phúc, đã giáo giới, đã khuyên
dạy Ông.
(VII) (17) Cha mẹ Của Nakula (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthì, tại Jetavana, khu vườn của ông
Anàthapindika. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng
dậy, đi đến giảng đường; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn. Rồi Tôn giả Sàriputta vào buổi chiều, sau khi từ Thiền tịnh
đứng dậy, đi đến giảng đường; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahàmoggallàna, Tôn giả Mahàkassapa, Tôn giả
Mahàkaccàna, Tôn giả Mahàkotthita, Tôn giả Mahàcunda, Tôn giả Mahàkappina, Tôn
giả Anuruddha, Tôn giả Revata, Tôn giả Ananda vào buổi chiều, từ Thiền
tịnh đứng dậy đi đến giảng đường; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi như vậy đến
quá phần lớn của đêm, từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tinh xá. Các Tôn
giả ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
về tinh xá của mình. Nhưng tại đấy, các Tỷ-kheo tân học xuất gia
không bao lâu, đi đến Pháp và Luật này chưa nhiều thời gian, ngáy và
ngủ tại chỗ cho đến sáng. Rồi Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân thấy các Tỷ-kheo ấy ngáy và ngủ tại chỗ cho đến sáng,
thấy vậy liền đi đến giảng đường; sau khi đến, ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo ấy:
2. - Này các Tỷ-kheo, Sàriputta ở đâu? Mahàmoggallàna ở đâu?
Mahàkassapa ở đâu? Mahàkaccàna ở đâu? Mahàkotthita ở đâu? Mahàcunda ở
đâu? Mahàkappina ở đâu? Anuruddha ở đâu? Revata ở đâu? Ananda ở đâu? Này
các Tỷ-kheo, các đệ tử trưởng lão ấy đã đi đâu?
- Bạch Thế Tôn, các Tôn giả ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu,
đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đi về tinh xá của mình.
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy không có các Tỷ-kheo trưởng
lão, các tân học Tỷ-kheo ngáy và ngủ cho đến trời sáng!
Các Thầy nghĩ thế nào? Này các Tỷ-kheo! Các Thầy có thấy và có
nghe như sau: "Một vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, sống chuyên
tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về
nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể cai trị cả nước cho đến
trọn đời, được quốc dân ái mộ và ưa thích"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: Này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, sống
chuyên tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc
về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể cai trị cả nước cho đến
trọn đời, được quốc dân ái mộ và ưa thích.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Người thôn quê sống trên đất trại của người cha, vị
tướng quân trong quân đội, vị thôn trưởng ở làng, vị tổ trưởng các tổ
hợp sống chuyên tâm hưởng thọ cho đến thỏa thích lạc về giường
nằm, lạc về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể trọn đời làm
tổ trưởng các tổ hợp và được các tổ viên ái mộ, ưa thích"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau, này các Tỷ-kheo: Một người thôn quê sống trên đất trại của người
cha, vị tướng quân sống trong quân đội, vị thôn trưởng ở làng, vị tổ
trưởng các tổ hợp sống chuyên tâm hưởng thọ lạc về giường nằm,
lạc về nằm dài, lạc về ngủ nghỉ, có thể trọn đời làm tổ
trưởng các tổ hợp và được các tổ viên ái mộ và ưa thích.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có hay có nghe
như sau: "Vị Sa-môn hay Bà-la-môn sống chuyên tâm hưởng thọ cho
đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về nằm dài, lạc về
ngủ nghỉ, không phòng hộ các căn môn, không tiết độ trong ăn uống,
không chú tâm cảnh giác, không quán các thiện pháp, đầu đêm cuối đêm
không sống chuyên tâm tu tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu hoặc,
có thể tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải
thoát, tuệ giải thoát"?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau, này các Tỷ-kheo: Một vị Sa-môn hay Bà-la-môn sống chuyên tâm hưởng
thọ cho đến thỏa thích lạc về giường nằm, lạc về nằm dài,
lạc về ngủ nghỉ, không phòng hộ các căn môn, không tiết độ trong ăn
uống, không chú tâm cảnh giác, không quán các thiện pháp, đầu đêm cuối
đêm không sống chuyên tâm tu tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu
hoặc, có thể tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập như sau:
3. Với căn môn được phòng hộ, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh
giác, quán các thiện pháp, đầu đêm cuối đêm sống chuyên tâm tu
tập các pháp giác chi, do đoạn tận các lậu hoặc, có thể tự mình với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(VIII) (18) Con Cá
1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại
chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ
nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy
vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới
một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt
cá, giết cá, đang bán cá?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán
cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe,
cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài
sản lớn hay tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do
nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay
cưỡi cỗ xe, hay được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa
tài sản lớn hay tài sản chất đống"? Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người
đánh cá ấy với ác ý nhìn các con cá bị giết, bị đem đi giết
hại, vì vậy, người ấy không được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi
cỗ xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa
tài sản lớn và tài sản chất đống.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người đồ tể, sau khi giết các con bò, giết
các con bò rồi đi bán; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy được cưỡi voi,
cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản,
hay được sống giữa các tài sản lớn hay tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe như
sau: "Một người đồ tể, sau khi giết bò, giết bò rồi đem bán;
do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay
cưỡi cỗ xe, hay được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa
tài sản lớn hay tài sản chất đống"? Vì sao? Người đồ tể giết
bò ấy với ác ý nhìn các con bò bị giết, bị đem đi giết hại, vì
vậy, người ấy không được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, hay cưỡi cỗ
xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các
tài sản lớn và tài sản chất đống.
Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có
nghe như sau: "Một người giết dê... một người giết heo... một
người giết chim... hay một người giết các loài thú rừng, sau khi
giết các thú rừng, giết các thú rừng rồi đem bán; do nghiệp ấy,
do mạng sống ấy được cưỡi voi... hay được sống giữa các tài sản lớn và
tài sản chất đống"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Ta cũng không thấy, cũng không nghe... Vì
sao? Người giết các loài thú rừng ấy, với ý nhìn các con thú rừng
bị giết, bị đem đi giết hại; vì vậy người ấy không được cưỡi
voi, không được cưỡi ngựa, không được cưỡi xe, không được cưỡi cỗ
xe, không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các
tài sản lớn hay tài sản chất đống.
Thật vậy, này các Tỷ-kheo, ai với ác ý nhìn các loài bàng sanh bị
giết, đem đi giết hại; vì vậy, người ấy không được cưỡi voi,
không được cưỡi ngựa, không được cưỡi xe, không được cưỡi cỗ xe,
không được thọ hưởng các tài sản, hay không được sống giữa các tài
sản lớn hay tài sản chất đống. Còn nói gì về người với ác ý nhìn
các loài Người bị giết, bị đem đi giết hại! Thật vậy, này các
Tỷ-kheo, như vậy là bất hạnh, đau khổ lâu dài cho người ấy, sau khi thân
hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
(IX) (19) Niệm Chết (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasattha. Tại đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" - "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất
tử. Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy tu tập niệm chết.
3. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống
ngày và đêm tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm
nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
4. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng ta sống
trọn ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm
nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
5. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ý
đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy. Như
vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
6. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều
như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
7. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Mong rằng cho
đến khi nào ta còn ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác
ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều như vậy.
Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
8. Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.
- Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Cho đến khi
nào, sau khi thở vào, ta thở ra, hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn". Con đã làm nhiều
như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.
9. Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo ấy:
- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau:
"Mong rằng ta sống ngày và đêm, tác ý đến lời dạy của Thế
Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này
tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng ta sống trọn ngày tác
ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như vậy".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong
rằng cho đến khi nào ta còn ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta
tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đã làm nhiều như
vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như
sau: "Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn và nuốt bốn, năm miếng
đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta
đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập
niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi nào ta còn ăn một
miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ý đến lời dạy của
Thế Tôn, ta đã làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau: "Mong rằng cho đến khi
nào sau khi thở vào, ta thở ra hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi
ấy, ta tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, ta đã làm nhiều như
vậy". Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy được gọi là những
vị sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn
diệt các lậu hoặc. Do vậy, này các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, các
Thầy cần phải tu học như sau:
10. "Hãy sống không phóng dật! Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm
chết để đoạn diệt các lậu hoặc".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
(X) (20) Niệm Chết (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasatha. Tại đấy,
Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo:
2. - Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu
cánh là bất tử. Tu tập niệm chết như thế nào, làm cho sung mãn
niệm chết như thế nào thời đưa đến quả lớn, lợi ích lớn,
thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm
vừa an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem đến cái chết cho
ta rất nhiều: "Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn
ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy
sẽ trở ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có thể
làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể
khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy
có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta". Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau: "Nếu ta còn
có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh
chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như
sau: "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta
lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta", thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất
thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần,
nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như,
này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo
ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần,
nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện
pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ
lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu
Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau: "Ta có những
pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm
nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học
tập trong các thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa
an trú, suy tư như sau: "Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta
rất nhiều: "Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn ta,
hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ
là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có
thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm
có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và
như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho
ta". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau:
"Nếu ta còn có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận,
nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng
ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như
vậy, biết được như sau: "Ta có những pháp ác bất thiện chưa
được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể
là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để
đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước
muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm
và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy,
thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước
muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm
và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn
tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn,
tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và
tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau:
"Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ
mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày
đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, niệm chết, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như
vậy thời được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu
cánh là bất tử.
III. Phẩm Trên Tất Cả
(I) (21) Tại Sàmagàma
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Sàmagàma, gần hồ
sen. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng
chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy bạch
Thế Tôn:
- Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa.
Thế nào là ba? Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích
ngủ nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối
đọa.
Vị Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Vị Thiên nhân ấy,
với ý nghĩ: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đêm nay, một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Ta; sau khi
đến, vị ấy đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy
nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa
đến Tỷ-kheo thối đọa. Thế nào là ba? Ưa thích công việc,
ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn,
đưa đến Tỷ-kheo thối đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân
ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng
về Ta rồi biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, thật không được
gì cho các Thầy, thật không khéo được gì cho các Thầy, vì rằng các Thiên
nhân ấy biết được các pháp dắt dẫn các Thầy thối đọa trong các
thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng ba pháp khác đưa đến
thối đọa, hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là ba pháp đưa đến thối
đọa? Ưa hội chúng, ác ngôn, ác bạn hữu. Ba pháp này, này các
Tỷ-kheo đưa đến thối đọa.
4. Này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ đã thối đọa trong các
thiện pháp, tất cả đều vì sáu pháp này, sẽ bị thối đọa trong
các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai sẽ bị thối
đọa trong các thiện pháp, tất cả đều vì sáu pháp này, sẽ bị
thối đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ kheo, những ai trong
hiện tại bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều vì
sáu pháp này, bị thối đọa trong các thiện pháp.
(II) (22) Không Thối Ðọa
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này, Ta sẽ
thuyết, hãy lắng nghe.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu pháp không thối đọa?
Không ưa công việc, không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không
ưa hội chúng, thiện ngôn, thiện bạn hữu.
Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này.
3. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời quá khứ không bị thối đọa,
trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối
đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời vị
lai sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ
sáu pháp này, sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp. Này các
Tỷ-kheo, những ai trong thời hiện tại không bị thối đọa trong các
thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối đọa
trong các thiện pháp.
(III) (23) Sợ Hãi
1. - Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Khổ, này
các Tỷ-kheo, là đồng nghiệp với các dục. Bệnh, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với các dục. Tham dính, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với
các dục. Bùn lầy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
2. Và này các Tỷ-kheo, vì sao sợ hãi là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các tham ước
muốn, ngay trong hiện tại không thoát khỏi sợ hãi, đời sau cũng không
thoát khỏi sợ hãi. Do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
3. Này các Tỷ-kheo, vì sao khổ... bệnh... cục bướu... tham dính...
bùn lầy là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi tham dục, ngay
trong hiện tại không thoát khỏi bùn lầy, đời sau cũng không thoát khỏi
bùn lầy. Do vậy bùn lầy là đồng nghĩa với các dục.
Sợ hãi và khổ đau,
Bệnh hoạn và cục bướu,
Cả hai tham dính bùn,
Ðược gọi là các dục,
Tại đấy kẻ phàm phu,
Tham đắm và chấp trước,
Thấy sợ trong chấp thủ,
Nguồn gốc của tử sanh,
Không chấp thủ, giải thoát,
Ðoạn tận được sanh tử,
Chúng đạt được an ổn,
Ðược hiện tại tịnh lạc,
Vượt sợ hãi oán thù,
Mọi đau khổ vượt qua.
(IV) (24) Núi Tuyết Sơn
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ
vua núi Tuyết sơn, còn nói gì vô minh hạ liệt. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo nhập được
Thiền định, thiện xảo trú được Thiền định, thiện xảo xuất
khỏi Thiền định, thiện xảo trong sự an lạc Thiền định, thiện
xảo trong cảnh giới Thiền định, thiện xảo trong sự dẫn khởi đến
Thiền định.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ
vua núi Tuyết sơn, còn nói gì vô minh hạ liệt.
(V) (25) Tùy Niệm Xứ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu Tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Khi nào,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm
không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối,
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham,
này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trương dưỡng. Do lấy cái
này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình
được thanh tịnh.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp:
"Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... được người trí tự mình
giác hiểu". Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy
niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi
phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực... các
loài hữu tình được thanh tịnh.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng:
"Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn... là ruộng phước vô
thượng ở đời". Khi nào, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm
Tăng... các loài hữu tình được thanh tịnh.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm giới:
"Giới không bị bể vụn... đưa đến Thiền định". Khi nào,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy niệm giới, trong khi ấy tâm
không bị tham chi phối... các loài hữu tình được thanh tịnh.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình tùy niệm thí
của mình: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta...
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối... các loài hữu tình được thanh
tịnh".
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên:
"Có bốn Thiên vương, có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên
Yàma, có chư Thiên Tusità (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư
Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa.
Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy
đủ với giới, với nghe pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau
khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng
có đầy đủ ở nơi ta". Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và
tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị tham chi
phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm
vị ấy được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Do lấy cái này làm
đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây, một số các loài hữu tình được
thanh tịnh.
Này các Tỷ-kheo, đây là sau Tùy niệm xứ.
(VI) (26) Kaccàna
1. Tại đấy, Tôn giả Mahàkaccàna gọi các Tỷ-kheo:
- Chư Hiền giả Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàkaccàna. Tôn giả Mahàkaccàna
nói như sau:
2. - Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền
giả! Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy,
các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm
xứ. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Này chư
Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không
bị tham chi phối, tâm không bị sân hận chi phối, tâm không bị si chi phối,
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham,
này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ
tử ấy, này chư Hiền, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư
không, rộng lớn quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư
Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được
thanh tịnh.
4. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp: "Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết... được các người có trí tự mình giác
hiểu". Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp, trong
khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị
sân chi phối, tâm không bị si phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra
khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với
năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm
đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không
sân. Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu
tình được thanh tịnh.
5-8. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng:
"Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn... là ruộng phước vô
thượng ở đời... niệm các giới... niệm thí... niệm chư
Thiên..." Thánh đệ tử, này chư Hiền, trong khi niệm chư Thiên,
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không
bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất
khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với các dục trưởng dưỡng.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư
không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư
Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây, một số loài hữu tình
được thanh tịnh.
Thật vi diệu thay, này chư Hiền! Thật hy hữu thay, này chư Hiền,
Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các
loài hữu tình được thanh tịnh vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt
được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.
(VII) (27) Các Thời Gian (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
- Có bao nhiêu thời gian để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý?
2. - Có sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị dục
tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, vị ấy không như thật rõ biết dục tham
đang khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập
về ý, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống
với tâm bị dục tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, tôi không như thật rõ
biết xuất ly khỏi dục tham. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho
tôi để đoạn tận dục tham". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý thuyết pháp để đoạn tham. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ
nhất để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý.
4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị sân chi
phối, bị sân ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân được
khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống với
tâm bị dục sân chi phối, bị dục sân ám ảnh, tôi không như thật rõ biết
xuất ly khỏi sân. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để
đoạn tận sân". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết
pháp để đoạn sân. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ hai để đi
đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
5-7. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị hôn
trầm thụy miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh... bị trạo hối chi
phối, bị trạo hối ám ảnh... bị nghi chi phối, bị nghi ám ảnh, không như thật
rõ biết xuất ly khỏi nghi được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến,
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
"Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị nghi chi phối, bị tâm bị nghi ám
ảnh. Tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi nghi. Lành thay, nếu Tôn
giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận nghi". Và Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn tận nghi. Này
Tỷ-kheo, đây là thời thứ năm để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
8. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo y cứ nơi tướng nào, do
tác ý tướng ấy, các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián
đoạn, vị ấy không biết, không thấy tướng ấy, trong khi ấy, sau khi đi
đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như
sau: "Thưa Hiền giả, y cứ nơi tướng nào, do tác ý tướng ấy các
lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn, tôi không biết không
thấy tướng ấy. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để
đoạn diệt các lậu hoặc". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý thuyết pháp để đoạn diệt các lậu hoặc. Này Tỷ-kheo,
đây là thời thứ sáu để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý.
Ðây là sái thời gian, mày Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
(VIII) (28) Các Thời Gian (2)
1. Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú tại Bàrànasi, chỗ chư Thiên
đọa xứ, vườn Lộc Uyển. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực
trở về, các vị Tỷ-kheo ngồi tụ họp lại trong căn nhà hình tròn,
và câu chuyện sau đây được khởi lên:
- Này chư Hiền, thời giờ nào để đi đến yết kiến vị
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý?
2. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch với các Tỷ-kheo trưởng lão:
- Thưa chư Hiền, khi nào vị Tỷ-kheo đã được tu tập về ý,
sau buổi ăn trưa, trên con đường khất thực trở về, sau khi rửa chân, đã
ngồi xuống, kiết-già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, đấy là
thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý.
3. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa Hiền giả, đây không phải thời để đi đến yết
kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi
Tỷ-kheo được tu tập về ý, sau bữa ăn, trên con đường khất thực
trở về, sau khi rửa chân, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm
trước mặt, bị mệt mỏi vì đi bộ, trong khi ấy, không cảm thấy khinh an,
bị mệt mỏi vì ăn uống, trong khi ấy, không cảm thấy khinh an. Do vậy,
không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo được tu tập
về ý. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về
ý, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng của tịnh
xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, thời ấy chính
là thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập
về ý.
4. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với vị Tỷ-kheo ấy:
- Thời ấy không phải thời để đi yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý. Thưa Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu
tập về ý, vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng
ngôi tịnh xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt,
định tướng gì vị ấy tác ý ban ngày, định tướng ấy trong khi ấy được
hiện hành. Do vậy, đây không phải là thời để đi yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Này Hiền giả, Tỷ-kheo
được tu tập về ý, sau khi đêm vừa mãn, mới thức dậy, ngồi
kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Khi ấy là thời để
đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
5. Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Khi ấy không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo
được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu
tập về ý, sau khi đêm đã mãn, thức dậy, ngồi kiết-già, lưng
thẳng, để niệm trước mặt, trong khi ấy, thân thể đầy nhựa sống,
vị ấy cảm giác thoải mái, tác ý đến lời dạy của các đức Phật. Do
vậy, khi ấy không phải là thời để yết kiến Tỷ-kheo được tu
tập về ý.
6. Ðược nói vậy, Tôn giả Mahà Kaccàna nói với các Tỷ-kheo trưởng
lão ấy:
- Thưa các Hiền giả, tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh
thọ như sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo nên đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Thế nào là sáu?
7-8. Mahà Kaccàna (lặp lại kinh 27 ở trên).
- Thưa chư Hiền, chính tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh
thọ như sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo cần đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
(IX) (29) Udàyi
1. Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Udàyi:
- Này Udàyi, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Ðược nói vậy, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn bảo
Tôn giả Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Lần thứ hai, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn
giả Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm? Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi giữ
im lặng. Rồi Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Udàyi:
- Này Hiền giả Udàyi, Thế Tôn gọi Hiền giả!
- Thưa Hiền giả Ananda, tôi có nghe Thế Tôn gọi. Bạch Thế
Tôn, khi Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời trước ở quá khứ như một
đời, hai đời... vị ấy nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và
các chi tiết. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Ta đã biết, này Ananda, kẻ ngu Udàyi này không sống chuyên tâm vào
tăng thượng tâm. Này Ananda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
- Bạch Thế Tôn, có năm chỗ để tùy niệm. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện...
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ
để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, đưa đến
hiện tại lạc trú.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ý với tưởng ánh sáng,
trú vào tưởng ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Ðêm như
thế nào thời ngày như vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn
chế, vị ấy tu tập tâm với ánh sáng, chiếu sáng. Bạch Thế Tôn,
đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm cho sung mãn, đưa
đến chứng đắc tri kiến.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân
trở lên trên, từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy những
vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột,
màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da,
nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Bạch Thế
Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung mãn như
vậy, đưa đến đoạn tận tham dục.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, ví như vị Tỷ-kheo thấy một thi
thể quăng bỏ trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể
ấy trương phồng lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy. Tỷ-kheo ấy đem so sánh
với thân này như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như
vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loại quạ ăn; hay bị các loài diều hâu
ăn; hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài dã can
ăn; hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này
như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không
vượt khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ
trong nghĩa địa, với các xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và
máu, còn được các đường gân cột lại; với các bộ xương còn liên kết
với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường
gân cột lại; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn thịt và
máu, còn được các đường gân cột lại; chỉ còn xương không dính lại với
nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây, là xương tay, ở đây là
xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là
xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là đầu. Tỷ-kheo ấy đem so
sánh với thân này như sau: "Thân này bản chất là như vậy, bản tánh là
như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Hay ví như vị ấy thấy một thi
thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc, chỉ
còn một đống xương lâu hơn một năm, chỉ còn là xương thối trở thành
bột. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau:: "Thân này bản
chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như
vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn
"Tôi là".
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ... chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư. Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế
Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến sự
thể nhập hoàn toàn các giới sai khác nhau.
Bạch Thế Tôn, đây là năm chỗ để tùy niệm.
- Lành thay, lành thay, này Ananda! Ðây là chỗ tùy niệm thứ sáu,
hãy thọ trì ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo chánh niệm đi ra, chánh
niệm đi vào, chánh niệm ngồi, chánh niệm nằm, chánh niệm trong
khi làm việc. Này Ananda, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu
tập, như vậy làm cho sung mãn, được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
(X) (30) Trên Tất Cả
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp vô thượng này. Thế nào là sáu?
2. Thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô
thượng, phục vụ vô thượng, tùy niệm vô thượng. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là thấy vô thượng?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi xem voi báu, đi xem ngựa
báu, đi xem châu báu, hay đi xem các vật lớn nhỏ, hay đi xem Sa-môn, hay
Bà-la-môn có tà kiến, có tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có phải là
thấy không? Ta nói rằng: Ðây là không thấy". Sự thấy ấy, này các
Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai đi yết kiến Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn, với
lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, thời này các
Tỷ-kheo, đây là thấy vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài
chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng
ngộ Niết-bàn, tức là đi yết kiến Như Lai hay đệ tử Như Lai,
với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là thấy vô thượng, đây là thấy vô thượng. Còn
nghe vô thượng là gì?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi nghe tiếng trống, đi
nghe tiếng sáo, đi nghe tiếng ca, hay đi nghe tiếng cao thấp khác
nhau, hay đi nghe pháp các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này
các Tỷ-kheo, đây có phải là nghe không? Ta nói rằng: "Ðây là không
nghe". Sự nghe ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là
phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích, không
đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai đi đến để nghe pháp của Như Lai hay của
đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín, thời này các Tỷ-kheo, đây là sự nghe vô thượng, đưa
đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là đi nghe pháp của
Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an
trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghe vô
thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô thượng. Còn lợi đắc vô thượng
là gì?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được con, được vợ, được
tài sản, được các vật cao thấp khác nhau, được lòng tin vào các Sa-môn hay
Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có lợi đắc hay
không? Ta nói rằng: "Ðây là không lợi đắc". Lợi đắc ấy, này các
Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai được lòng tin vào Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với
lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, thời này các
Tỷ-kheo, đây là đắc lợi vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các
loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là được lòng tin vào Như Lai hay của đệ tử
Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đắc lợi vô thượng, đây là thấy vô
thượng, nghe vô thượng, đắc lợi vô thượng. Còn học tập vô thượng là
gì?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người học tập về voi,
học tập về ngựa, học tập về xe, học tập về cung pháp,
học tập về kiếm pháp, học tập về các nghề cao thấp sai
biệt hay học tập theo các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà
hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây là có học tập hay không? Ta nói rằng:
"Ðây là không học tập". Học tập ấy, này các Tỷ-kheo, là
hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên
hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai
học tập Tăng thượng giới, học tập tăng thượng định, học tập
tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, với lòng
tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này các
Tỷ-kheo, đây là học tập vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các
loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là học tập Tăng thượng giới, học tập
tăng thượng định, học tập tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như
Lai tuyên thuyết, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là học tập vô thượng, đây
là thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô
thượng. Còn phục vụ vô thượng là như thế nào?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phục vụ Sát-đế-ly, phục
vụ Bà-la-môn, phục vụ gia chủ, phục vụ các người cao thấp sai biệt hay
phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là có phục vụ hay không? Ta nói rằng: "Ðây là không phục vụ".
Phục vụ ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu,
không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích, không đưa
đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai phục vụ Như Lai hay đệ tử Như Lai,
với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này các
Tỷ-kheo, đây là phục vụ vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài
chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng
ngộ Niết-bàn, tức là phục vụ Như Lai hay đệ tự Như Lai, với lòng tin
an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là phục vụ vô thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô
thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng, phục vụ vô thượng. Và
thế nào là tùy niệm vô thượng?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tùy niệm được con, tùy
niệm được vợ, tùy niệm được tài sản, tùy niệm được cao thấp
sai biệt hay phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này
các Tỷ-kheo, đây là có tùy niệm hay không? Ta nói rằng: "Ðây là
không tùy niệm". Tùy niệm ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ
liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai tùy niệm
Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú,
nhứt hướng thuần tín, này các Tỷ-kheo, tùy niệm ấy là vô thượng,
đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt
khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là tùy
niệm Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng tin được an trú, với lòng
ái mộ được an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là tùy niệm vô thượng.
Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm này:
Ai được thấy tối thắng,
Và được nghe vô thượng,
Ðược lợi đắc vô thượng,
Vui học tập vô thượng,
An trú trong phục vụ,
Tu tập chuyên tùy niệm,
Liên hệ đến viễn ly,
Ðạt an ổn, bất tử,
Hoan hỷ, không phóng dật,
Thận trọng, hộ trì giới,
Khi thời đã chín muồi
Ðau khổ được đoạn tận.