Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Văn thể và các giai đoạn hình thành của kinh Pháp Hoa

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11278)
4. Văn thể và các giai đoạn hình thành của kinh Pháp Hoa

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần I: Kinh Pháp Hoa và Đạo Bụt Đại Thừa 

Văn thể và các giai đoạn hình thành của kinh Pháp Hoa

Kinh Pháp Hoa có nhiều trùng tụng hơn kinh Duy Ma. Trùng tụng tức là phần kệ tụng ở trong kinh, tiếng Phạn là Geya, mình phiên âm là Già-đà. Kinh Duy Ma chỉ có hai đoạn trùng tụng mà thôi. Đoạn thứ nhất là ca ngợi Bụt, nói về Phật Thân Quang, đoạn thứ hai là nói về gia đình của Như Lai. Nếu đọc kinh Pháp Hoa quý vị sẽ thấy trùng tụng là những đoạn thi kệ lập lại những ý đã được nói trong phần trường hàng (Sũtra). Trường hàng tức là văn xuôi. Khi đọc các kinh Đại Thừa, ta thường có cảm tưởng phần kệ tụng là để tóm thâu lại phần trường hàng.

Có rất nhiều thể tài của kinh điển, như Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Thí dụ, Nhân duyên, Vô vấn, Bản sanh, Bản sự v.v... Ở đây ta mới nói đến hai thể tài đầu của kinh điển đạo Bụt là Trường hàngTrùng tụng. Ta có thể nghĩ rằng hai thể tài đó xuất hiện đồng thời. Khi còn trẻ tôi thường nghĩ rằng sở dĩ kinh có phần trùng tụng vì phần này dễ nhớ hơn, lý dothi ca thì dễ đọc và dễ thuộc hơn văn xuôi. Điều đó cũng đúng, nhưng không đúng trong trường hợp này cho lắm. Lý do là lúc mới xuất hiện, kinh điển thường được viết bằng thi kệ mà không viết bằng văn xuôiTương tự như kho tàng ca dao tục ngữ của Việt-nam, được truyền lại bằng miệng, gọi là văn chương truyền khẩuKinh điển Đại Thừa cũng vậy. Ban đầu kinh xuất hiện dưới hình thức những bài kệ tụng truyền miệng. Do đó với kinh Pháp Hoa, những phần trùng tụng xuất hiện trước, và đó là giai đoạn đầu kinh Pháp Hoa xuất hiệnNgôn ngữ mà những nhà tư tưởng này sử dụng để diễn bày kinh Pháp Hoa được gọi là tiếng Prakrit, một ngôn ngữ thông dụng trong xã hội Ấn độ thời đó, cho nên dễ hiểu và dễ học thuộc hơn. Ngôn ngữ này có luật lệ riêng của nó, cũng như thơ lục bát của Việt-nam:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Rất dễ nhớ, rất dễ hiểuTuy nhiên, vì là một văn thể có những hình thứcluật lệ riêng, cho nên chữa lại bài văn vần thì hơi khó.

Trong giai đoạn thứ hai của sự hình thành kinh Pháp Hoa, người ta thêm vào phần văn xuôi, tức là phần trường hàng, với mục đích làm cho những đoạn trùng tụng rõ nghĩa hơn lên. Ví dụ như hai câu ca dao kể trên, trong đó có nhiều chữ chiều, nhưng không phải mọi chữ chiều đều có cùng một nghĩa, vì vậy mà ta phải dông dài hơn để giải thích những đoạn thi kệ. Do đó tuy rằng anh chàng văn xuôi, anh chàng trường hàng xuất hiện sau anh chàng trùng tụng mà mình cứ tưởng là anh ta xuất hiện trước, rồi ta mới tóm tắt lại thành thơ cho dễ nhớ. Như vậy, trường hàng, trước tiên là được dùng để giải thích lời kinh. Trong kinh ta thường gặp những câu như: Bụt nói đến đây và muốn tóm tắt lại những nghĩa lý đã nói, nên liền đọc bài kệ sau đây... Đó là điều đã được người ta thêm vào sau, và không đúng với sự hình thành của kinh. Ta phải đổi lại rằng: Sau khi đã nói bài kệ rồi, Bụt thấy nghỉa lý hơi cô đọng nên Ngài thêm những lời giải thích sau đây..., thì đúng hơn. Đứng về phương diện khoa học để nghiên cứu thì ta mới thấy được những điều đó. Quí vị là những người được sống trong thế kỷ thứ hai mươi, đã được thụ hưởng phương pháp văn học sử mới, quý vị có thể khám pháchấp nhận được những điều này.

Giai đoạn thứ ba của sự hình thành Pháp Hoa là sự phát triển thêm phần trường hàng, tức là phần văn xuôiTại vì khi so các bản tiếng Phạn với nhau, ta thấy có những bản trong đó phần trường hàng ngắn hơn phần trường hàng của những bản khác, nghĩa là kinh Pháp Hoa cũng đã mọc lên như một cây đại thọ, nẩy chồi, đâm nhánh. Giữa thế kỷ thứ hai nó còn thấp nhỏ, nhưng đến cuối thế kỷ thứ hai thì nó cao lớn hơn nhiều.

Giai đoạn thứ tư là giai đoạn kinh được thêm vào những phẩm mới. Trong bản chữ Hán, kinh Pháp Hoa có 28 phẩm và trong bản tiếng Phạn ta đang có, chỉ có 27 phẩm thôi. Sự tìm tòi nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng, kể từ phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới đã được thêm vào. Có thể là khi sử dụng, các thầy thấy có những khuyết điểm, nên họ đã thêm vào những phẩm sau. Trong những phẩm đầu, chúng ta thấy có tư tưởng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Bụt, nghĩa là mọi giới kể cả các vị Thanh văn (ệrẠvaka) Duyên giác (Pratyekabuddha), và Bồ Tát (Bodhisattva), ai cũng có khả năng tính thành Bụt. Đây là lý thuyết chủ yếu của kinh Pháp Hoa. Nhưng cho đến phẩm 22 ta vẫn chưa thấy nữ giới thành Bụt, cho nên các tổ đã phải thêm vào một phẩm, đó là phẩm thứ 13, trong phẩm này bà dì của Bụt tức là Bà MahẠprajẠpati Gautamỉ (Ma-Ha-Bà-Xa-Bà-Đế Kiều-Đàm-Di) và mẹ của La Hầu La (RẠhula), tức là người bạn đường của Bụt trước khi Ngài đi tu, bà YasodharẠ (Da-Du-Đà-La), cũng được thọ ký để thành Bụt. Tuy vậy phải đợi cho tới khi thấy được sự thiếu sót hay bị chỉ trích thì các thầy mới thêm vào phẩm ấy.

Một phẩm khác, phẩm thứ 12, trong đó có nhân vật Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta), cũng đã được thêm vào sau này. Đề-Bà-Đạt-Đa là một người quấy phá Bụt từ lúc Ngài bắt đầu đi tu cho đến khi Ngài thành lập giáo đoàn, cho nên theo nguyên tắc thì ông này không thành Bụt được. Tuy vậy, tư tưởng Pháp Hoatư tưởng Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, nghĩa là mỗi chúng sanh đều có khả năng trở thành một người giác ngộ hoàn toànVì vậy mà có một phẩm mới, nói về Đề-Bà-Đạt-Đa, trong đó Đề-Bà-Đạt-Đa cũng được thọ ký và thành Bụt sau này. Có như vậy mới đi tới được sự hoàn thành tư tưởng chính yếu của kinh Pháp Hoa. Đây là lý do của sự hình thành giai đoạn thứ tư của kinh Pháp Hoa, trong đó một số phẩm mới đã được thêm vào.

Trong học giới Ấn Độ thời đó đã có một sự hưng thịnh lớn, đã có những lý thuyết mới, những tư trào văn minh mới, do đó nền văn học Phật giáo cũng phải có một hình thái mới. Phật Pháp phải được trình bày dưới những hình thái văn chương, nghệ thuật thích hợp với đương thời thì mới được tuổi trẻ và giới trí thức chấp nhận, vì vậy mà đã có một số học giả nhuận kinh Pháp Hoa từ tiếng Prakrit, một ngôn ngữ rất bình dân, không có tính cách thông thái, thành một ngôn ngữ thường dùng trong giới bác học, văn chương, đó là tiếng Sanskrit tức là tiếng Phạn. Những tác phẩm triết họcvăn học đương thời đều viết bằng tiếng Phạn. Tương tự như lúc người Pháp mới sang Việt-nam, chữ Nho và chữ Nôm bị mất vị thế, trong khi đó người nói được tiếng Tây mới được xem nhưvăn minh, mới được trọng vọngVì vậy mà có những bài thơ châm biếm:

Nào có hay gì cái chữ Nho,
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co,
Chi bằng đi học làm ông Phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.

Prakrit và Sanskrit là hai thứ tiếng gần giống nhau, nhưng hình thái văn phápchữ nghĩa của Sanskrit rất khác với Prakrit. Cho nên, đứng về phương diện trường hàng tức là văn xuôi, thì việc nhuận văn rất dễ dàng, nhưng đứng về phương diện trùng tụng thì rất khó dịch. Vì vậy mà có nhiều đoạn trùng tụng đã không sửa lại được thành Sanskrit, nên vẫn phải để nguyên chữ Prakrit. Thành ra tiếng Phạn trong kinh Pháp Hoa cũng như trong một số kinh điển khác là tiếng Phạn lai, nghĩa là một ngôn ngữ trộn lẫn giữa Sanskrit và Prakrit. Các học giả vào thế kỷ 19 và 20 thường gọi tiếng Phạn trong kinh điển đạo Bụt là Buddhist Hybrid Sanskrit, tức là tiếng Phạn lai của đạo Bụt. Sư Cô Chân Đức sẽ đọc cho quí vị nghe một đoạn trùng tụng bằng tiếng Phạn lai, và Sư Cô Viên Quang sẽ đọc cho quí vị nghe cũng đoạn kinh đó bằng tiếng Hán. Bản chữ Hán không lai và rất lưu loát vì được thầy Cưu Ma La Thập, một dịch giả đại tài thực hiện. Đó là bài kệ tụng tóm tắt lại nghĩa lý của Phẩm thứ hai gọi là Phẩm Phương Tiện. Phẩm này có thể xem nhưcương lĩnh của kinh Pháp Hoa. Trong tất cả các phẩm, phẩm mà chúng ta phải học kỹ nhất là Phẩm Phương Tiện.

Điều tôi vừa nói về hai chữ Diệu Pháp rất là quan trọng, nó cho chúng ta thấy kinh Duy Makinh Pháp Hoa khác nhau. Một kinh đứng về phương diện chuyên môn và triết học, một kinh đứng về phương diện đại chúngthực tiễn, và nhờ vào ưu điểm ấy mà kinh Pháp Hoa đã thực hiện được sự nghiệp rất lớn lao của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13755)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25473)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13843)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15172)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17787)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17175)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14273)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13258)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14515)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16816)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19149)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18962)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21220)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14847)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39243)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14788)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16207)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15281)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14990)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39254)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24610)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18103)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19755)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17591)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14919)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13961)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13837)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14187)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21993)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16811)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15283)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14607)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14409)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15109)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18651)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23180)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28662)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15114)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14172)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14735)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18406)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26617)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15272)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14919)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15267)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15238)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant