KINH ÐẠI BÁT
NIẾT BÀN Dịch
Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Tịnh
Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
XXVIX PHẨM
CÚNG DƯỜNGXÁ LỢI THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Lúc
đó, Thiên Đế cầm bình thất bảo cùng đồ cúng dường
đến chỗ trà tỳ, ngọn lửa tự nhiênđồng thời tắt.
Thiên Đế liền mở nắp kim quan, muốn thỉnh răng nanh của
Phật.
Ngài
A Nâu Lâu Đà liền ngăn lại và hỏi : “Ông làm gì thế
?”
Ngài
A Nâu Lâu Đà bảo : “ Chớ vội lấy ! Ông nên chờ đại
chúng để cùng nhau chia.”
Thiên
Đế nói : “ Trước kia đức Phật hứa cho tôi một răng
nanh Xá Lợi, vì cớ ấy nên tôi vừa đến thời lửa liền
tắt.”
Nói
xong, Thiên Đế liền lấy một răng nanh xá Lợi ở hàm trên
bên hữu đem về thiên cung xây tháp cúng dường.
Lúc
đó có hai quỉ La Sát Thiệp Tập ẩn thântheo sauĐế Thích,
mọi người đều chẳng thấy, hai quỉ trộm lấy một cặp
răng nanh Xá Lợi của Phật.
Tất
cả đại chúng cùng nhơn dân trong thành đồng thời muốn
tranh lấy xá lợi.
Ngài
A Nâu Lâu Đà bảo rằng: Đại chúng nên chẫm rãi chờ ! Như
lời Phật dặn phải theo đúng pháp cùng nhau chia để cúng
dường.
Mọi
người chẳng nghe theo lời ngài A Nâu Lâu Đà, đều võ trang
muốn dành lấy Xá Lợi. Đồng áp đến bên kim quan, nhìn thấy
bông Đâu La Miên cùng bạch diệp còn nguyên chẳng cháy, Thấy
thế mọi người đứng nhìn cất tiếng khoc than, đồng cúng
dường đãnh lễ, quì xuống rơi lệ nói kệ tán thán rằng
:
Như
Lai do sức đại tự tại, Tất cả thế gian được tự tại,
Đại Bi bổn nguyện ở cõi nầy, Vòng
quanh biển khổ độ chúng sanh. Vô lượngtrí huệ sức thần
thông, Ra vào sanh tử không chướng ngại, Một thân hiện ra
làm nhiều thân, Nhiều thân một thân làm vô lượng. Thần
biến ứng khắp người đều thấy, Không duyên liền hiện
nhập Niết Bàn, Chúng tôi hết phước không duyên ứng, Nên
bị Như Laibuông bỏ rời. Kim quan của Phật nơi Song Thọ,
Tất cả lực sĩ không khiêng nổi, Do sức Đại Bi tự cất
lên, Bay trên hư không một Đa La. Chẫm rải bay vòng thành
Thi Na, Bảy ngày bay đủ bảy vòng thành, Sau đó tự đến
chỗ trà tỳ, Thần lựcbất cộng làm việc ấy. Đại chúng
trời người không lường được, Đức Phật ở trong Đại
Niết Bàn, Kim Cang bất hoại sức tự tại, Tất cả lửa đuốc
đều chẳng cháy, Từ nơi giữa ngực phóng chơn hỏa, Bảy
ngày đốt cháy mới hết củi, Trời người không thể tắt
lửa nầy, Đại BiThế Tôn hiện thần lực. Đế Thích vừa
đến lửa bèn tắt, Bông Đâu La Miên bao thân Phật, Ngọn
lửa quá to mà chẳng cháy, Ngàn trương bạch điệp quấn thân
Phật, Ở trong lửa hừng mà chẳng cháy, Mới biết Như Lai
sức tự tại. Tự tại với pháp là Pháp Vương, Kỉnh lễ
Từ Tôn trong ba cõi, Lễ đấng vô úy trong các thành, Lễ đấng
đại từ che tất cả, Lễ đấng thần biếnđại tự tại,
Chúng tôi từ nay xa Thế Tôn, Buồn khổ không ai cứu vớt
được, Buồn thay, thương thay đấng Đại Thánh, Vĩnh biệt
ngày nào lại thấy Phật !
Đại
chúng nói kệ xong, than khóc cúng dường.
Lúc
đó ngài A Nâu Lâu Đa vì tất cả đại chúng mà chẫm rãi
tháùo bạch điệp cùng bông Đâu La. Ngàn bức bạch điệp
của Ma Ha Ca Diếp đều còn nguyên vẹn. Ngàn bức bạch điệp
của nhân dân trong thành trừ một lớp ngoài còn nguyên, ngoài
ra đều cháy ra tro tất cả. Bông Đâu La Miên còn nguyên như
cũ.
Ngài
A Nâu Lâu Đà đem bạch điệp Đâu La Miên còn nguyên không
cháy nầy cắt nhỏ ra chia cho đại chúng khiến đem về xây
tháp cúng dường. Ngài lại đem tro bạch điệp cũng chia cho
đại chúng. Những thứ tro khác đại chúng riêng tự lấy
để đem về xây tháp cúng dường.
Người
trong thành Câu Thi Na đã sắm sẵn tám cái ché bằng vàng,
mỗi ché dung lượng một hộc, cùng tám tòa sư tửtrang nghiêm
bằng bảy báu. Ché vàng để trên tòa sư tử, mỗi tòa có
ba mươi hai lực sĩ khiêng. Trên mỗi tòa có ba mươi hai gái
đẹp trang sức lộng lẫy : Áo màu , chuỗi ngọc. Tám
người vịn ché vàng, tám người cầm lọng báu, tám người
cầm gươm báu, tám người cầm cờ Tiết dựng bốn mặt ché.
Theo
sau mỗi tòa, có vô lượngđại chúng trổi nhạc cầm phan
lọng rải hương hoa. Lại có vô lượng võ sĩ cầm cung tên
kiếm kích vệ hộ tòa sư tử.
Lúc
khiên tám tòa sư tử ra khỏi thành, nhơn dân trong thành liền
đem vô sốhương thủy hương nê theo saulực sĩ, để sửa
sang mặt đất làm thành con đường bằng phẳng thơm sạch thẳng đến chỗ trà tỳ. Nhơn dân lại giăng treo vô số phan
lọng hương hoachuỗi ngọc chơn châu trang nghiêm hai bên đường
để chờ cung nghinh Xá Lợi của Như Lai.
Lúc
các lực sĩ khiêng tám tòa sư tử báu đến chỗ trà tỳđại
chúngcất tiếng kêu khóc vang động, cùng nhau đãnh lễ chí
tâmcúng dườngNhư Lai.
Đức
Thế Tôndùng sứcĐại Bi làm cho thân Kim Cang nát thành hột
Xá Lợi nhỏ, chỉ bốn răng nang còn nguyên vẹn.
Đại
chúngngó thấyXá Lợi càng thêm buồn thương than khóc đồng
đãnh lễ cúng dường.
Ngài
A Nâu Lâu Đà cùng người trong thành vừa khóc than rơi lệ,
vừa thâu lấy Xá Lợi để vào trong ché vàng trên tòa sư
tử. Tám ché vàng đựng đầy Xá Lợi của Phật mới hết.
Đại
chúng thấy thân Xá Lợi vào ché vàng xong, lại khóc lóc đảnh
lễcúng dường.
Các
đại lực sĩcùng nhân dân đại chúng rước Xá Lợi vào
thành Câu Thi Na để giữa ngã tư đường. Người trong thành
võ trang bốn đội quân phòng vệ bốn mặt thành. Lại sai
năm trăm nhà chú thuật giỏi chia ra gìn giữ bốn cửa thành.
Dầu võ trang phòng vệ như vậy, nhưng trọn không có lòng
chiến tranh.
Ngoài
thành cũng như trong thành, nhơn dân treo vô số phan lọng.
Tám
ché vàng đựng Xá Lợiđể yên trên tòa sư tử trọn bảy
ngày.
Đại
chúng trời người cũng trọn bảy ngày khóc than chẳng dứt
và không ngớt đảnh lễcúng dường.
Mỗi
tòa sư tử đều có năm trăm nhà chú thuậtgìn giữ, phòng
ngừa có Thiên, Long, Dạ Xoa, Quỉ Thần đến lén lấy Xá
Lợi.
Quốc
VươngCa Tỳ La Vệ cùng dòng Thích Cathân quyến của Phật,
vì thần lực của Phật nên sau khi Đức Phậtnhập Niết
Bàn hai mươi mốt ngày mới hay tin. Quốc Vương cùng dòng họ
Thích lật đật đến thành Câu Thi Na, thấy khắp thành phan
lọng rợp trời, quân đội và các nhà chú thuậtgìn giữ
bốn cửa thành nghiêm ngặt.
Quốc
VươngCa Tỳ Lahỏi thăm biết rằng Phật nhập Niết Bàn
đã qua hai mươi tám ngày, trà tỳ rồi sắp sửa chia Xá Lợi.
Quốc Vưông xin phép các nhà chú thuật cùng quân đội giữ
thành để được vào đảnh lễXá Lợi của Đức Như Lai.
Người giữ thành liền cho Quốc Vương cùng dòng họ Thích
vào thành.
Vừa
thấy Xá Lợi của Phật đựng trong ché vàng trên tòa sư tử,
Quốc VươngCa Tỳ La Vệ cùng người họ Thích Ca đều rơi
lệ nghẹn ngào cúi đầu đảnh lễ rồi đi nhiễu bảy vòng,
muốn thỉnh một phần Xá Lợi của Đức Như Lai đem về nước
cúng dường.
Đại
chúng đáp rằng : “ Dầu biết các ông là quyến thuộc dòng
Thích Ca, nhưng Đức Thế Tôn trước kia có dặn phân chiaXá
Lợi, chưa nghe nói đến các ông. Xá Lợi nầy đều có thỉnh
chủ, đâu dám chia cho các ông, các ông nên trở về.”
Quốc
Vương cùng người dòng Thích Ca thỉnh Xá Lợi chẳng được,
vì quá đau đớn nên kêu gào ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại
bảo đại chúng rằng : “ Đức Thế Tôn giáng sanh trong dòng
Thích Ca của chúng tôi, nay vì thương xót các ông mà nhập
Niết Bàn tại đây. Sao các ông lại hẹp hòi khinh khi chúng
tôi mà chẳng chịu chia một phần Xá Lợi. Nói xong, đồng
đảnh lễXá Lợiđi nhiễu bảy vòng, buồn khóc rơi lệ
ôm giận mà trở vềCa Tỳ La Vệ.
Vua
A Xà Thế chúa nước Ma Già Đà chẳng hay Đức Như Lainhập
Niết Bàn . Trong đêm Đức Phậtnhập Niết Bàn, vua mộng
thấy mặt trăng rớt, mặt trời từ đất mọc lên, các ngôi
sao rơi rớt khắp nơi, hơi khói từ đất bay lên, bảy sao
chổi hiện ratrên trời, lửa lớn cháy khắp hư không rồi
đồng thờisa xuống đất. Khi tỉng giấc lòng vua kinh sợ
triệu các quan đến để hỏi.
Các
quan tâu rằng : Đây là điềm Đức Phậtnhập Niết Bàn.
Sau khi Đức Phậtdiệt độ, lục đạochúng sanhphiền não
nổi dậy, nên nhà vua thấy lửa to cháy từ hư khôngsa xuống
đất. Nguyệt ái từ quang của Phật đều tắt mất nên
nhà vua thấy mặt trăng lặn. Tám muôn luật nghi tất cả giới
pháp, chúng sanh không tuân hành mà theo tà pháp đọa nơi địa
ngục, nên nhà vua thấy các ngôi sao sa xuống. Tam đồ ác đạo
hiện khắp thê gian, chúng sanh bị khổ như ánh nắnggay gắtnóng bức, nên nhà vua thấy mặt trời từ đất mọc lên.
Vua
A Xà Thế liền cùng các quan suốt đêm thẳng đến thành Câu
Thi Na, muốn vào thành để đảnh lễKim CangXá Lợi của
Như Lai, người giữ cửa thành cho vua cùng các quan vào
thành. Đến giữa ngã tư đường nhà vua thấy ché vàng
đựng Xá Lợi để trên tòa sư tử, liền rơi lệ khóc lóc
, cùng các quan đồng đãnh lễ cúng dường đi nhiễu Xá Lợi
bảy vòng. Vua A Xà Thếyêu cầuđại chúng cho thỉnh một
phần Xá Lợi để đem về nước cúng dường. Đại chúng
không bằng lòng. Vua A Xà Thế thỉnh Xá Lợi không được
liền đảnh lễ buồn tức trở về nước.
Vua
nước Tỳ Gia Ly, vua nước A Lặc Già La, vua nước Tỳ Nậu,
vua nước Sư Già Na, vua nước Ba Kiên La, hay tin Phật nhập
Niết Bàn đều dắt các quan đi gấp đến thành Câu Thi Na,
thấy vô số quân binh phòng vệ bốn cửa thành, các vua xin
vào thành để đảnh lễcúng dường Xá Lơiï. Người giữ
thành liền mở cửa cho vào. Sau khi buồn than đảnh lễcúng
dườngXá Lợi xong, các vua đều xin chia phần Xá Lợi
để thỉnh về nước cúng dường. Đại chúng không bằng
lòng. Các vua sầu khổđảnh lễXá Lợi buồn tức trở về
nước.
Khi
về đến nước nhà, Quốc VươngCa Tỳ La Vệ cùng vua các
nước đều sai sứ đến thành Câu Thi Na để xin thỉnh Xá
Lợi. Người trong thành Câu Thi Na bảo rằng : “ Đức Thế
Tôn đã nhập Niết Bàn tại nước của chúng tôi, toàn thânXá Lợi phải để tại nước chúng tôicúng dườngmãi mãi,
quyết chẳng chia cho người nước ngoài.”
Sứ
giả của các nước bảo rằng : “ Nếu chịu chia xá Lợi
cho các nước thời tốt, bằng không, chúng tôi, buộc phải
dùng sức mạnh để đoạt lấy.”
Vua
A Xà Thế lại sai đại tướng Võ Hành đem binh đến bảo
người trong thành Câu Thi Na : “ Nếu chịu chia Xá Lợi thời
tốt, bằng không chúng tôi sẽ thêm binh lực để đoạt lấy.
Người
trong thành đều trả lờitùy ý. Rồi tất cả những tráng
sĩ cùng nam nữ trong thành đồng võ trang kéo bốn bộ binh
ra thành muốn giao chiến với binh các nước.
Lúc
đó nước Tỳ Gia Ly sai quân đội đến thành Câu Thi Na. Nước
Tỳ Nậu, nước Giá La Ca La, nước Sư Gia Na, nước Ba Kiên
La cùng Quốc VươngCa Tỳ La Vệ, năm nước này cũng đều
sai quân đội đến thành Câu Thi Na.
Quân
của bảy nước vây kín thành Câu Thi Na.
Lúc
đó trong đại chúng có một Bà La Môn họ Yên ở giữa quân
đội của tám nước to tiếng khuyên rằng : “ Xin các lực
sĩ thành Câu Thi Na lóng nghe ! Đức Thế Tôntừ vô lượng
kiếp chứa công đức lành, tu hạnh nhẫn nhục, các ngài cũng
thường nghe Đức Phật khen ngợi hạnh nhẫn nhục. Hôm nay
Đức Như Lai vừa diệt độ, các ngài đâu nên vì Xá Lợi
mà đánh đập nhau, hành động nầy chẳng phải là cử chỉtôn kínhXá Lợi. Các ngài nên chia Xá Lợi của Như Lai làm
tám phần để cúng dường ở tám nước.”
Các
lực sĩ đáp rằng : “ Xin kính tuân lời đề nghị ấy.”
Lúc
đó Yên Bà La Môn liền chia Xá Lợi làm tám phần bằng nhau.
Chia xong Yên Bà La Môn to tiếng xin thỉnh cái bình dùng lường
Xá Lợi để đem về tụ lạc Đầu Na La xây tháp cúng dường.
Đại chúng đồng bằng lòng.
Các
Cư Sĩ và Bà La Môn ở nước Tất Ba Diên Na xin thỉnh tro chỗ
trà tỳ. Đại chúng cũng bằng lòng.
Lúc
đó người thành Câu Thi Na lãnh được phần Xá Lợi thứ
nhứt. Người nước Ba Kiên La thỉnh được phần Xá Lợi
thứ hai. Người nước Sư Già Na thỉnh được phần Xá Lợi
thứ ba. Người nước A Lặc Già thỉnh được phần Xá Lợi
thứ tư. Người nước Tỳ Nậu thỉnh được phần Xá Lợi
thứ năm. Người nước Tỳ Gia Ly thỉnh được phần Xá Lợi
thứ sáu. Người nước Ca Tỳ La Vệ thỉnh được phần Xá
Lợi thứ bảy. Chúa nước Ma Già ĐàVua A Xà Thế thỉnh được
phần Xá Lợi thứ tám. Người trong tám nước đều xây tháp
cúng dườngXá Lợi tại nước mình.
Yên
Bà La Môn thỉnh bình đựng Xá Lợi về xây tháp tại tụ
lạc Đầu Na La.
Người
nước Ba La Diên Na cũng thỉnh tro đem về xây tháp cúng dường.
Lúc
đó trong Diêm Phù Đề có tám tháp thờ Xá Lợi của Phật,
một tháp thờ bình lường Xá Lợi, một tháp thờ tro. Thế
là việc phân chiaXá Lợi đã xong.
Lúc
đó chư Bồ Tát, hàng Thanh Văn, Trời, Người, Bát BộQuỉ
Thần, Quốc Vương, Trưởng Giả, Quan, Dân toàn thểđại
chúng buồn khóc rơi lệ cúi đầu đảnh lễXá Lợi của
Phật mà đi.
- TRỌN
BỘ –
BỔ
KHUYẾTTÂM KINH
MA
HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhãba la mật đa thời, chiếu
kiếnngũ uẩngiai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá
Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức
thị không, không tức thị sắc ; thọ, tưởng, hành, thức,
diệt phục như thị. Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng
: Bất sanh , bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giãm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức
; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt thân, ý ; vô sắc, thinh, hương,
vị xúc, pháp ; vô nhãn giớinãi chívô ý thức giới ; vô
vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc, vô
lão tử tận ; vô khổ, tập, diệc, đạo ; vô trí diệc vô
đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏay Bát nhã ba
la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữukhủng bố, viễn lyđiên đảomộng tưởngcứu cánhNiết
Bàn.
Tam
thế chư Phậty Bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.
Cố
triBát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh
chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ
nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố
thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết :
“
Yết đếyết đế, ba layết đế, ba la tăng yết đế, bồ
đềtát bà ha.”
VÃNG
SANHQUYẾT ĐỊNHCHƠN NGÔN
Nam
môA di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, A di
rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, A di rị đa,
tỳ ca lan đế, A di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già
na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. ( 3 lạy )
Khể
thủTây phươngAn lạc quốc. Tiếp
dẫnchúng sanhđại đạo sư. Ngã
kim phát nguyện nguyện vãng sanh. Duy
nguyện từ bi ai nhiếp thọ, Ngã
kim phổ vị tứ ântam hữu, Cập
pháp giớichúng sanh cầu ư chư Phật. Nhứt
thừavô thượng Bồ Đề đạo cố, Chuyên
tâmtrì niệmA Di Đà Phật, Vạn
đức hồng danh kỳ sanh tịnh độ. Duy
nguyện Từ PhụA Di Đà Phật, Ai
lân nhiếp thọtừ bigia hộ.
A Di
Đà Phật thân kim sắc, Tướng
hảoquang minhvô đẳng luân. Bạch
hào uyển chuyển ngũ Tu Di, Hám
mục trừng thanh tứ đại hải. Quang
Trung hoá Phậtvô số ức, Hoá
Bồ Tát chúng diệc vô biên, Tứ
thập bát nguyện độ chúng sanh, Cửu
phẩmhàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam
môTây Phương cực lạcthế giớiđại từ đại bitiếp
dẫn đạo sưA Di Đà Phật.( niệm 10, 20, 30 câu tùy ý )
Nam
môQuán Thế Âm Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nam
mô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nam
môĐịa Tạng Vương Bồ Tát ( 10 tiếng ) Nam
mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ( 10 tiếng )
HỒI HƯỚNG
Đệ
tử chúng đẳng, hiện thị sanh tửphàm phu, tội chướng
thâm trọng, luân hồilục đạo, khổ bất khả ngôn ; kim
ngộ tri thức, đắc văn A Di Đàdanh hiệu, bổn nguyện công
đức, nhứt tâmxưng niệm, cầu nguyệnvãng sanh, nguyện Phậttừ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất
thức Phật thân, tướng hảoquang minh, nguyện Phậtthị hiện,
linh ngã đắc kiến cập kiến Quán ÂmThế Chí chư Bồ
Tát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quang
minhdiệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến, A
Di Đà Phật.
Ngã
kim trì niệmA Di Đà Tức
phát Bồ Đềquảng đại nguyện : Nguyện
ngã định huệ tốc viên minh Nguyện
ngã công đức giai thành tựu Nguyện
ngã thắng phước biến trang nghiêm Nguyện
cộng chúng sanhthành Phật đạo. Vãng
tích sở tạo chư ác nghiệp Giai
do vô thỉ tham sân si Tùng
thân ngữ ý chi sở sanh Nhứt
thiết ngã kim giai sám hối. Nguyện
ngã lâm dục mạng chung thời Tận
trừ nhứt thiết chư chướng ngại Diện
kiến ngã Phật A Di Đà Tức
đắcvãng sanhCực Lạc sát. Ngã
ký vãng sanhCực Lạc dĩ Hiện
tiềnthành tựu thử đại nguyện Nhứt
thiết viên mãn tận vô dư Lợi
lạcnhứt thiết chúng sanh giới. Ngã
Phật chúng hội hàm thanh tịnh, Ngã
thời ư thắng liên hoa sanh Thân
đỗ Như LaiVô Lượng Quang Hiện
tiền thọ ngã Bồ Đề ký. Mong
ngã Như Laithọ ký dĩ Hóa
thânvô số bá cu chi Trí
lựcquảng đại biến thập phương Phổ
lợi nhứt thiết chúng sanh giới Chúng
sanhvô biênthệ nguyện độ. Phiền
nãovô tậnthệ nguyện đoạn, Pháp
mônvô lượngthệ nguyện học, Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành. Nguyện
sanh Tây Phương tịnh độ trung, Cửu
phẩm liên hoa vi phụ mẫu, Hoa
khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất
Thối Bồ Tát vi bạn lữ Nguyện
dĩ thử công đức Trang
nghiêm Phật tịnh độ Thượng
báo tứ trọng ân Hạ
tế tam đồ khổ. Nhược
hữu kiến văn giả Tức
phát Bồ Đề tâm, Tận
thử nhứt báo thân, Đồng
sanh Cực Lạc Quốc, Tận
thử nhứt báo thân Đồng
sanh An Dưỡng Quốc.
NGUYỆN
A Di
Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền
tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời,
thân tâmchánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà,
giữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt
sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng
độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chí
tâm đảnh lễ : Nam Mô A Di Đà PhậtThế Tôn.
Nguyện
ngã Tội chướng tất tiêu diệt ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Thân tâm hàm thanh tịnh ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Nhứt tâm tảo thành tựu ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Tam muội đắc hiện tiền ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Liên đài tự tiêu danh ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Kiến Phật ma đảnh ký ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Dự tri mạng chung thời ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Vãng sanhCực Lạc Quốc ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Viên MãnBồ Tát đạo ( 1 lạy ) Nguyện
ngã Quảng độ chư chúng sanh ( 1 lạy )
Chí
tâmqui mạngđảnh lễ : Nam MôTây Phương Cực Lạcthế
giớigiáo chủ, thọ quang thể tướngvô lượngvô biên,
từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại
từ đại bitiếp dẫn đạo sưA Di ĐàNhư Lai biến pháp
giớiTam Bảo ( 1 lạy )
Tự
quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo,
phát vô thượng tâm (l lạy)
Tự
quy y Pháp, đượng nguyện chúng sanh, thâm nhậpkinh tạng,
trí huệ như hải.( 1 lạy )
Tự
quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng,
nhứt thiết vô ngại .( 1 lạy )
HẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN TRỌN BỘ
Chân
thànhcảm ơn Thầy Thích Đồng
Bổn và Đạo hữuLệ
Diệu
đã giúp đánh máy vi tính bộ kinh này (Tâm Diệu)
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy
đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có
người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm
ngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây là
đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,
sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư
Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người
khách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức
mạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong
hỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lại
đem bán.
Người
bán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ
có kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trả
giá đắt cho tôi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện
sanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư
Thiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm
phungu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy
gìa, bệnh, chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết
người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể
giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều
có thể hại chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.
Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười
tuổi cũng đều khổ não cả.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên
miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người
nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh
tật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng
biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ
trật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy
hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng
diệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn
ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng
diệu cõi trờicõi người mà có thể chẳng ăn.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn
vô lượngthí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất
khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát sanh là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát lão là khổ như thế nào ?
Sự
già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm
mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất
sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,
mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví nhưhoa sen nở tốt đầy trong ao nước
rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư
nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoạitráng kiện, sắc
đẹp.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví nhưquốc vương có một trí thần dùng
binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.
Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước
nghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt
được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví nhưtrục xe đã gãy, xe đó không còn dùng
được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào
việc gì.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,
bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp
nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.
Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc
già suy cướp giựt.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục
mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,
tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dụcsung sướng mà chẳng thể đặng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường
nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo
mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục
thuở tráng kiện.
Nầy
thiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến
khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự
tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi
già suy ai cũng nhàm ghét.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không
còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già
ép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai là
vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví nhưmặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,
ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình
mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh
thần kém suy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùngchánh pháp cai
trị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.
Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn
lưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhà
vua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùng
chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao nay
lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già
suy làm bại hoại, thời thường tán thánsự nghiệp đã làm
thuở tráng kiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ
dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người
dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải
qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi
ích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân người
bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng
thể có lợi ích.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió
to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,
thế chẳng thể còn được.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.
Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,
già suy thường bị người khinh hủy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượngthí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát già là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sátbịnh khổ như thế nào ?
Ví
như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể
phá hoại tất cả những sự an ổnvui vẻ.
Như
người có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,
tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.
Ví
như có người hình dungxinh đẹp, Vương-phi tâm dụcyêu thương,
sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền
truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một
tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị
người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước
thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnh
khổhành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như
cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì
chết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Như
vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạođi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa
ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời
toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự
chết thường theo sát bịnh khổ không rời.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầu
lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp
bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng
có thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoại
sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòngtàm
quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Do
những điều dụ đó và vô lượngthí dụ khác, nên biết
bịnh rất là khổ não.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sátbịnh khổ.
Nầy
thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa
Đại- Niết-Bàn quán sáttử khổ ? Sự chết có thể đốt
cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất
cả, chỉ trừ cõi trờinhị thiền trở lên, vì thế lực
của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể
tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa
Đại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Như
lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,
chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai
chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất
cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Như
lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ
cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.
Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ
Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà
gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng
cháy đến ?”
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn
trong thân và ngoại cảnh.
Cõi
Sơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏa
tai.
Cõi
Nhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủy
tai.
Cõi
Tam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
Cõi
Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai
họa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong
ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến
được.
Lại
nầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể
tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,
chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự
chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉ
không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước
lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ
cây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tất
cả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phục
tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng
vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉ
trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc
nầy vô ngại.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giả
làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận
tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người
kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng
sanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầy
chẳng phóng dật.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối
xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,
bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim
cương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có
thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài
rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,
sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ ba môn chánh định : Không, vô tướngvô nguyện.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắn
nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,
chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,
sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ
trừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thể
dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cảichâu báu mà đặng
khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nóidịu
dàng, tiền củachâu báu để cống dưng cũng chẳng thoát
khỏi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không
gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm
đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn
đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không
chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai
ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách
gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu
xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng
hay biết được.
Nầy
Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượngthí
dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sáttử khổ.
NầyThiện-nam-tử
! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-
Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làm
cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :
Nhơn
ái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vì
ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh có
già suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay
sanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệtrõ
ràng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,
có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn
bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu
thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không
làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một
đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là
Đãnh-Sanh.
Thời
gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,
tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày
rằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu cao
tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh
xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanh
nghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vua
Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,
có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên
thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,
tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng
: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua
Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa
xong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,
rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhà
vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sau
đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như
bạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì
muốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gối
bên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượng
nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.
Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay
đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung
vua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc
mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí
nghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát
thệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của
vua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ
sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé
biển rồi trở về cung vua.
Kế
đó lại có Nữ-bảo xuất hiệnxinh đẹpđệ nhứt, chơn
lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen
xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữi
cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,
da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,
lời nóidịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người
ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnh
hay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kế
đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp
vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối
có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn
như trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che một
do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau
đó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy
thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn
đều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèn
cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng
thần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy
hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra
mười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhà
vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kế
đó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,
điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời
hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân
lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầy
có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ
sứcgiữ gìn.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo
các quan : “
Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,
cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,
đại vương nên đem binh qua chinh phục.”
Vua
Đảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơn
dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Các
quan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinh
phục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đề
này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận
ta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,
khoái lạc, thân chư Thiênxinh đẹp hơn nhơn gian, cung điện
nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời
chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”
Vua
Đảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,
trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đó
là cây gì ?
Đại-thần
tâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợi
nầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây
đó.
Lại
trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏi
đại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,
chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận
những việc cõi trờicõi người.
Thiên-Chúa
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ra
tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.
Hai vua hình dungtướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn
nháy là khác nhau.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúa
nầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thích
vốn thọ trìđọc tụngkinh điển Đại-thừa, thường vì
chư Thiêngiảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa
của kinh. Do thọ trìgiảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế
có oai đức hơn.
Khi
vua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước
liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng
rất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnh
chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,
vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổ
não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợp
ái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi
kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sự
ái-biệt-ly khổ trong đờihiện tại !
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinh
Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tát
nầy quán sátđịa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,
trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Ví
như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là
rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúng
sanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Ví
như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,
nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp
mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,
nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đây
gọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát
oán-tằng-hội khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừa
Đại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầu
là mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,
hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng
thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây
là lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũ
ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước
Phật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanh
lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng
gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ
: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc
trước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nào
có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức
Phật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh
vui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn
đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như
Phật từng nói kệ :
Trì
giới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủ
nghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhận
lấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơi
núi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúng
sanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thường
vui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũng
gọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráo
đến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọi
là rất vui.
Thế-Tôn
! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế
nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo
có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạng
hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ
không khác với ngày trước đã nói.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối với
sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,
tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,
ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng
nên có vui.
Thế-Tôn
! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,
sanh hạng thượng là trên trời.
Nếu
lại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng
cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ
không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời
phải trả lời thế nào ?
Thế-Tôn
! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy
có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh
một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh
trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơi
trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như
lời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vì
như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị
đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanh
lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng
là vui.”
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánh
một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng
vui.
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam
trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải
mâu thuẩn vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,
khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,
hành khổ, hoại khổ.
Nầy
T.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,
hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ
và hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.
Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa
nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuậnthế gian nên nói là có vui.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếu
tùy theothế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? Như
Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả
báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc
làm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh
như vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thời
chư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp
tu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như
vậy ý nghĩa thế nào ?
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước
kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng
vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước
nói tướng vui như vậy.
Ví
như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có
thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu
uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được
lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,
bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vật
như vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vui
nên gọi là vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.
Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn
đến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,
nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ
nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng
rốt ráo vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểu
rỏ là khổ nên không bị khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết
nhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng
hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vui
nầy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết- Bàn quán sáttập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sáttập đế là nhơn duyênngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyến
nơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là ái
đồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưa
đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm
trước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại
có ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền nãonhơn duyên ái,
khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,
đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Tham
lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan
tính phân biệt vô-lượng vô-biên.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bất
thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các
vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ
: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.
Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Kẻ phàm phutham ái gọi là “ tập” chẳng
gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thật
đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nên
thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đức
Phật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nói
kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyên
mà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật
nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.
Phật
khen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lời
ông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải
nhơn, chỉ vì năm ấmcần phải nhơn nơi ái.
Ví
nhưquốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy
đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết
sử cũng đi theo.
Ví
nhưy phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng
vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví
như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể
sanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,
hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn
độc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm
là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt
thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như
thiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiền
của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên
bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng
bồ-đề.
Như
vợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sát
làm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịt
con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người
sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn
luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngã
quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có người
thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền
đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm
ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm
hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị
Bồ-Tát.
Vật
thực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ăn
vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng
sanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường
ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
dâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,
dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của
rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị
tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba
đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
hột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn
chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây
to làm cho khô chết, tham áiràng buộcphàm phu làm cho pháp
lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết
đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịt
thúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,
trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâm
chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng có
thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanh
trong đó, phải nên siêng năng điều trịtham ái, nếu khôngđiều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các
vị Bồ-Tát.
Như
gió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngã
cây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,
có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của các
ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
sao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiên
hạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,
ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng
thiếu thốn sanh bịnh phiền nãolưu chuyển trong sanh tử mang
nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn
quán sáttham ái có chín thứ như vậy.
Do
nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-Văn
Duyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Tát
hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu có
tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tập
đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơn
đế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.
Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
có đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơn
đế.
Chân lýtự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lựctự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợibình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặnggật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
Để phát TâmBồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứu và tu tập với những đạo sưTây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tậpthực tiễnhằng ngày.
Hòa ThượngTịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáothế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nở ở Ấn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
Các Phật tử, Bồ Tátban sơphát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báunhư ýgiá trị từ hạ trung thượng cho đếnvô giá...
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂNthuyết minh, được các Thánh giảkết tập thành Tạng Luận trong Tam tạngThánh giáo.
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộkiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bácphi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồthành tín trên đường Đạo.
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinhtriệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
Hãy nôn ra lòng sân hậnđộc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúc và an lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phậttrong suốtlịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóanhân loại, những luồng sinh khí mà đạo Phật đã thổi vào...
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
Khi chúng tahiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộvì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đạithịnh trịđặc biệt về mọi mặt...
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giảnbình dị của Lục Tổ.
Con ngườibình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sửtư tưởngPhật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích NữTrí Hải
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.