Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 2 - Phương tiện

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9540)
Phẩm 2 - Phương tiện

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM 2: PHƯƠNG TIỆN

Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá-Lợi-Phất: Trí tuệ của chư Phật sâu sa vô lượng, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bích-Chi-Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấnTrí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tuy cơ nói pháp ỳ thú khó lường.

Xá-Lợi-Phất ! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, linh họat trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các Ba-la-mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô-ngại trí, thập trí-lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.

Như Lai tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở thích của nhiều hạng căn cơ.

Nhưng, thôi đi! Xá-lợi-phất! Không cần nói nữa!

Bởi vì pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết thấu tột “Thật tướng”. Rằng:

“ Các pháp Tướng của nó như vậy.

 Tánh của nó như vậy.

 Thể của nó như vậy.

 Lực của nó như vậy.

 Tác của nó như vậy.

 Nhơn của nó như vậy.

 Duyên của nó như vậy.

 Quả của nó như vậy.

 Báo của nó như vậy.

Và từ đầu chí cuối của nó như vậy.”

Bấy giờ có một số Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ, những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý nghĩa rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu... nào là Như Lai phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể hiểu được...!

Tại sao Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết Bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức Phật như có ý chê trách những điều tu họcchứng đắc của hàng Thanh Văn, Duyên Giác bấy lâu nay!

Ông Xá-lợi-phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:

Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Hiện giờ bổn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ cho về duyên cớ ấy!

Phật bảo: Xá-lợi-phất! Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả người, trời, a-tu-la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ, không tốt.

Bạch Thế Tôn! Ông Xá-lợi-phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải hội này có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ sức kính tin.

Đức Phật lại khuyên ngăn: Rằng nếu nói việc đó thì người, trời, a-tu-la đều kinh nghi, Tỳ kheo, tăng-thượng-mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.

Ông Xá-lợi-phất lại ân cần cầu thỉnh xin Phật rủ lòng thương...

Sau ba lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá-lợi-phất, đức Phật vừa hứa khả, tức thì trong hải hội có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật xin được rút lui.

Đức Thế Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá-lợi-phất: Rằng trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.

Xá-lợi-phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời này.

Này! Xá-lợi-phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem ra nói. Như hoa Linh thoại đến thời tiết mới trổ một lần.

Xá-lợi-phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối tượng, hợp căn cơ cho nên mỗi người, mỗi lúc khác nhau. Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo đẹp, đáp ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.

Xá-lợi-phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!

Nầy! Xá-lợi-phất! Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:

Mở bài và giới thiệu “Tri Kiến Phật” của chúng sanh

Vận dụng ngôn từ, tỷ dụ, khéo léo để “chỉ” Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.

Hướng dẫn cho chúng sanh “Hiểu Kỹ ” về Tri Kiến Phật của mình.

Khuyến cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri Kiến Phật mà mình vốn có.

Đó là cái lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri Kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!

Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một “Phật thừa” chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, tỷ dụ dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh “một Phật thừa” khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành “Nhất thiết chủng trí ”.

Xá-lợi-phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri Kiến Phật “chỉ” cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ về Tri Kiến Phậtthể nhập, sống trong Tri Kiến Phật của chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa làm gì có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa phân biệt tạm nói có ba.

Xá-lợi-phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có thừa nào khác, mà chỉ có một “ Phật thừa” thôi!

Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên rằng một bài kệ:

... Xá-lợi-phất ! Nên biết

Ta vốn lập thệ nguyện

Muốn tất cả chúng sanh

Bằng như ta không khác

Như ta xưa đã nguyện

Nay đã viên mãn rồi

Độ tất cả chúng sanh

Đều khiến vào Phật đạo

 ... Xá-lợi-phất ! Nên nhớ

 Ta vì bày phương tiện

 Nói các đạo diệt khổ

 Chỉ cho họ Niết Bàn

 Ta dù nói Niết Bàn

 Mà không thật diệt độ

 Các pháp từ xưa nay

 Tướng nó thường vắng lặng

 Phật tử hành đạo rồi

 Sau đó được thành Phật

... Nếu có hạng chúng sanh

Nghe pháp Phật tu hành

Những người như thế đó

Đều đã thành Phật đạo

 ... Các Phật diệt độ rồi

 Người cúng dường Xá lợi

 Nhóm đất làm tháp Phật

 Những hạng người như thế

 Đều đã thành Phật đạo

... Các đồng tử vui chơi

Nhóm cát thành miếu Phật

Những trẻ con như thế

Đều đã thành Phật đạo

 ... Nếu có người mến Phật

 Chạm trổ các hình tướng

 Nắng vẽ hình tượng Phật

 Những người như thế đó

 Đều đã thành Phật đạo

... Có người trước tháp miếu

Dùng hoa, hương, phan lọng

Thành kínhcúng dường

Ca ngâm khen ngợi Phật

Nhẫn đến tiếng thì thầm

Đều đã thành Phật đạo

 … Hoặc người tâm tán loạn

 Vào trong tháp miếu Phật

 Một xưng nam mô Phật

 Đều đã thành Phật đạo

… Với chư Phật quá khứ

Tại thế hoặc diệt độ

Nghe tin chư Phật ấy

Đều đã thành Phật đạo

 … Nếu có người nghe pháp

 Không ai chẳng thành Phật

 Các Phật vốn thệ nguyện

 Tu hành thành Phật đạo

… Phật là thầy trong đời

Thường phương tiện tùy nghi

Diệt bỏ tâm nghi hối

Tự biết sẽ thành Phật.
 
 

THÂM NGHĨA
 

Vận dụng “phương tiện” nhằm đạt đến chỗ “cứu cánh”… Cũng như khi người ta sử dụng “sách lược” nhằm đạt đến “mục đích lý tưởng”… Vận dụng “phương tiện” để đạt đến cứu cánh là chủ trương phương cách giáo hóa, uốn nắn thực hiện theo con đường “vương đạo”; sử dụng “sách lược” để đạt đến mục đích là có tính thủ đoạn cai trị, theo con đường “bá đạo” nói theo ngôn từ của các nhà chánh khách, thời xưa.

“ Phương tiện” trong việc giáo hóa, có nghĩa là “Nói vậy mà chưa phải vậy”. Bảo rằng: “Học vậy đi! Hiểu vậy đi! Làm vậy đi! Lợi ích lắm đó! Tốt lắm đó!” Nhưng cái lợi ích và sự tốt đó, chưa phải là cái “ lợi ích” cứu cánh và muốn đạt đến các “tốt” cứu cánh, cần phải học, phải hiểu, phải làm nhiều hơn nữa. Bấy giờ sự học, hiểu và việc làm đó mới đến nơi đến chốn, mới đến chỗ cứu cánh trọn vẹn…

Vì sao hơn 40 năm thuyết pháp, Phật chỉ dùng “phương tiện” giáo hóa chúng sanh?

Tại vì, Phật xuất hiện ra đời với mục đích cao đẹp “tuyệt trần” mà trong khoảng thời gian đó, Phật chưa thể nói rõ ra được.

Tại vì chúng sanh đang sống trong cuộc đời đầy năm trược ác, cấu chướng nặng nề, ba nghiệp không lành, sáu căn chưa trong sạch, nếu dạy pháp tu hành “thành Phật” chúng sanh ngần ngại khó khăn.

Tại vì, nói chúng sanh có khả năng thành Phật, chúng sanh không dám tin nhận ở khả năng mình

Thế cho nên Như Lai phải vận dụng “phương tiện” mà dẫn dụ, uốn nắn, bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sanh một cách dần dần, ngay từ thời thuyết pháp đầu tiên ở Lộc-giả-uyể, thành Ba-la-nại…

· Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Sự xuất thế của Như Laitrí tuệ của Như Lai có, không phải là sự ngẩu nhiên do sự đưa đẩy trôi xuôi theo dòng nghiệp lực…

· Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh về hoài bảo duy nhấtmục đích tối thượng của Như Lai ngay lúc bắt đầu cuộc hành trình thuyết giáo độ sanh, nhưng Như Lai chưa nói rõ ra được điều đó.

· Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với hàng Thanh Văn, Duyên Giác, rằng pháp mà Như Lai dạy cho họ chỉ là pháp “Tiểu Thừa” và Niết Bàn họ chứng đắc chưa phải thật diệt độ, nhưng hơn 40 năm qua, Như Lai chưa nói điều đó.

· Lẽ ra “ mười hai bộ kinh”, Như Lai phải bình đẳng dạy cho tất cả chúng sanh, nhưng vì căn tánh không đồng, đối với hạng chủng tánh Nhị-thừa Như Lai dạy cho họ chỉ có 9 kinh.

· Lẽ ra từ lâu, Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh đều sẳn có Tri Kiến Phật, nhưng Như Lai đã bí mật dấu hẳn điều này vì căn cơ của chúng sanh còn thấp kém chưa đủ trí tuệ để tiếp thu.

· Lẽ ra, trước đây Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tu hành là “thành Phật”, không có quả Nhị thừa, Tam thừa nào khác, nhưng từ lâu nay, Như Lai nói có. Vì đó là phương tiện của Như Lai.

· Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh là Phật, nhưng cho đến bây giờ, trước giờ phút nhập Niết Bàn, Như Lai mới mở kho tàng bí mật, để giao trọn gia tài pháp bảo vô giá của Như Lai cho tất cả chúng sanh.

Trong quá trình thuyết giáo độ sanh, với một lập trường kiên địnhlinh hoạt tuyệt vời, Như Lai vận dụng “Tứ-tất-đàn” một cách vô cùng phong phú. Nhờ vậy, mọi căn cơ đều được thấm nhuần mưa pháp. Người học Phật không được lảng quên tiêu chuẩn:

1. Thế giới tất-đàn

2. Vị-nhân tất-đàn

3. Đối-trị tất-đàn, và

4. Đệ-nhất-nghĩa tất-đàn.

Để hiểu một cách quyết định và tin sâu về “Tri Kiến Phật” về “Phật Tánh” của mình, người học kinh Pháp Hoa còn phải am tường về nguồn giáo lý “Lục Tức Phật”:

1. Lý tức Phật.

2. Danh tự tức Phật.

3. Quán hành tức Phật.

4. Tương tợ tức Phật.

5. Phần chứng tức Phật.

6. Cứu cánh tức Phật.

Dựa trên nguồn giáo lý “Lục tức” mỗi người có thể tự nhận xétđánh giá địa vị “Đã thành Phật” của mình. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31320)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26214)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27879)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26694)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31200)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20247)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22887)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30021)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21544)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20226)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22630)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20737)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30277)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28758)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34703)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44197)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35489)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22521)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21344)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20662)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24747)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37892)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19016)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19307)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21785)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35088)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32589)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28911)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43117)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34914)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43891)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37857)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21315)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43010)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48996)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39817)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53771)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36808)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40783)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49721)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47294)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27677)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27014)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27214)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24064)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20835)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22451)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25089)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25820)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22934)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22461)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21155)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant