Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 20054)
Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật


KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT


Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

 

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

 

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

Phật nói Kinh Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật

Chính tôi được nghe một thời Ðức Bạt Già Phạm ở thành Vương Xá, với chúng đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ngài đại trí Xá Lợi Phất là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, thương xót thế gian, từ toà đứng lên, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con có một ít chuyện muốn hỏi, xin Ðức Phật vui lòng nghe cho !

Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng : Tuỳ ngươi muốn hỏi, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi Ðức Thế Tôn rằng :

Ðại Sư đã thụ ký

Ðương lai Phật hạ sinh

Danh hiệuTừ Thị

Như trước sau Kinh nói.

Xin đấng Nhân Trung Tôn

Phân biệt lại lời tụng

Thần thông oai đức kia

Nay con muốn được nghe

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Nên chí tâm nghe kỹ:

Ðương lai đấng Từ Thị

Vì người rộng tuyên nói

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần đến ba ngàn

Hai trăm Du thiên na

Vì tỏ đường luân vương

Thiệm bộ châu ngang dọc

Cả vạn Du thiên na

Hữu tình ở trong đó

Xứ ấy đều xung mãn

Quốc độ đều giàu thịnh

Không hình phạt tai ách

Các con trai con gái

Ðều do nghiệp thiện sinh

Ðất không có gai gốc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Chân đi đạp lên trên

Ví như vải tơ lụa

Tự nhiên mọc lúa thơm

Mùi ngon đều sung túc

Các cây sinh áo mặc

Tơ lựa đều trang nghiêm

Cây cao ba Câu xá

Hoa quả thường sung thực

Thời đó người trong nước

Ðều thọ tám vạn tuổi

Không có các bệnh khổ

Lìa não thường an lạc

Tướng đủ đều trang nghiêm

Sắc lực đều viên mãn

Người có ba thứ bệnh

Ăn suy già tiện lợi

Con gái năm trăm tuổi

Mới kết làm hôn nhân

Khi muốn đi tiện lợi

Ðất sé mà dung thụ

Mạng người sắp muốn hết

Tự đến rừng Thi lâm

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là đô của Luân Vương

Ngang mười hai do tuần

Rộng lượng bảy do tuần

Những người ở trong đó

Ðều từng trồng nhân lành

Thành này có thắng đức

Ở đây đều hoan hỉ

Lâu đài và khước địch

Dùng bảy báu làm nên

Ðóng khoá và môn đình

Ðều dung báu trang nghiêm

Tường vây quanh ao hào

Ðều làm bằng châu báu

Hoa đẹp đều sung mãn

Chim tốt đều bay đậu

Bảy hàng cây Ða la

Ðều mọc vây chung quanh

Các báu dùng trang nghiêm

Ðều treo lưới chuông báu

Vang ra những tiếng hay

Cũng như tấu bát âm

Nghe rồi sinh hoan hỉ

Nơi nơi có hồ ao

Ðầy tràn các thứ hoa

Vườn rừng mọc hoa thơm

Trang nghiêm cho thành quách

Trong nước có Thánh Chúa

Tên hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương bốn châu

Giàu thịnh nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Dũng mãnh gồm bốn binh

Bảy báu đều thành tựu

Ngàn con thảy đều đủ

Bốn biển đều thanh bình

Không có chiến binh đao

Chánh pháp dạy quần sinh

Giáo hoá đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Ðều ở trong các nước

Mỗi kho tàng đều có

Châu báu trăm muôn ức

Trong nước Yết Lăng Già

Có kho Băng Kiệt La

Trong nước Mật Si La

Có kho Bát Trục Ca

Kho Y La Bát La 

Ðể ở nước Kiện Ðà

Ở nước Ba Tư Nặc

Kho tên là Hướng Khư

Ðó là bốn kho tàn

Ðều thuộc vua Hướng Kh

Là của do trăm phước

Quả báo đều thành tựu

Quan đại thần giúp nước

Bà La Môn Thiện Tịnh

Bốn minh đều sáng suốt

Ða văn làm quốc sư

Bác thông các tạp luận

Thiện giáo hữu văn từ

Dạy giải các thanh minh

Không chẳng làu hiểu suốt

Cô gái tên Tịnh Diệu

Làm phu nhân đại thần

Tiếng khen tướng đoan nghiêm

Ai thấy đều vui mừng

Ðại trượng phu Từ Thị

Từ cõi trời Hỷ Túc

Sinh vào phu nhân kia

Mượn chỗ sinh thân mình

Bà mang thai đại Thánh

Ðược đầy đủ mười tháng

Ngày kia Từ Tôn mẫu

Ði đến vườn Diệu Hoa

Vào dạo vườn hoa đó

Chẳng ngồi cũng chẳng nằm

Sẽ vịn cành cây hoa

Chợt sinh đấng Từ Tôn

Khi đó đấng Tối Thắng

Ra bên hông phải mẹ

Như mặt trời tan mây

Khắp phóng đại quang minh

Chẳng nhiễm súc bào thai

Như sen vượt khỏi nước

Hào quang chiếu ba cõi

Ðều chiêm ngưỡng Ðại Từ

Ðương khi lúc giáng sinh

Thiên nhãn trời Ðế Thích

Tự thân rước Bồ Tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ Tát đương khi đó

Tự nhiên đi bảy bước

Mà ở dưới lót chân

Ðều mọc hoa sen báu

Xem khắp cả mười phương

Bảo các chúng trời người :

Thân ta đây cuối cùng

Vô sinh chứng Niết Bàn

Rồng mưa nước trong mát

Tắm gội thân Ðại Từ

Trời rải hoa đẹp lạ

Hư không gió nhẹ nhàng

Chư thiên mang lọng trắng

Cầm che Ðấng Từ Tôn

Ðều sinh tâm ít có

Giữ gìn cho Bồ Tát

Mẫu thân ẵm Bồ Tát

Ba mươi hai tướng tốt

Ðầy đủ các quang minh

Phụng trì trao từ mẫu

Ngự giá dâng xe vua

Ðều dùng báu trang nghiêm

Mẹ con đều lên xe

Chư thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về hoàng cung

Tự Thị vào đô thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Tôn giáng đản

Các phụ nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Ðều sinh trai trí huệ

Thiện Tịnh cha Từ Tôn

Coi tướng con kỳ diệu

Ðủ ba mươi hai tướng

Lòng sinh đại hoan hỉ

Cha theo pháp chiêm đoán

Biết con có hai tướng :

Ở đời làm Luân Vương

Xuất gia thành Chánh Giác

Bồ Tát đã thành lập

Thương xót các quần sinh

Trong mọi khổ hiểm nạn

Luân hồi thường không ngừng

Sắc vàng quang minh sáng

Thanh âm như Ðại Phạm

Mắt như hoa sen xanh

Chi thể đều viên mãn

Thân dài tám mươi khửu

Vai rộng hai mươi khửu

Mặt rộng lượng nửa vai

Tướng trăng tròn đoan nghiêm

Bồ Tát biết mọi nghề

Khéo dạy thụ học ấy

Số trẻ nhỏ xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Khi đó vua Hướng Khư

Kiến lập bảy tràng báu

Tràng cao bảy mươi tầm

Rộng khoảng sáu mươi tầm

Tràng báu tạo thành rồi

Vua phát tâm đại xả

Cho các Bà la môn

Thiết lập hội vô già

Khi đó các Phạm Chí

Số có một ngàn người

Ðược tràng báu đẹp đó

Khoảng chốc lát hư hoại

Bồ Tát thấy thế rồi

Nghĩ thế tục đều vậy

Sinh tử khổ trói buộc

Nghĩ cầu được xuất ly

Duy có đạo tịch diệt

Liền bỏ tục xuất gia

Trong sinh già bệnh chết

Cứu cho được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện rằng :

Tám vạn bốn ngàn người

Ðều sinh tâm nhàm lìa

Cùng theo tu phạm hạnh

Lúc ban đầu phát tâm

Bỏ tục mà xuất gia

Ngay ở trong đêm đó

Thẳng lên ngôi Ðẳng Giác

Thời có cây bồ đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn Du thiên na

Um tùm xanh tươi tốt

Cành lá toả bốn bên

Che sáu Câu lư xá

Từ Thị Ðại Bi Tôn

Dưới cây thành Chánh Giác

Tối thắng nhất trong người

Ðủ tám tiếng phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sinh

Khiến lìa các phiền não

Khổ và nơi khổ sinh

Tất cả đều trừ diệt

Hay tu Bát Chánh Ðạo

Lên bờ Niết Bàn kia

Vì các thanh tín sĩ

Nói đạo bốn Chân đế

Ðược nghe diệu pháp ấy

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn Diệu Hoa

Các chúng như mây tụ

Ðầy trong trăm Do tuần

Quyến thuộc đều đầy dẫy

Vua Luân Vương Hướng Khư

Nghe pháp thâm diệu rồi

Xả hết các châu báu

Phát tâm xin xuất gia

Chẳng luyến tiếc cung điện

Chí cầu được thoát khỏi

Tám vạn bốn ngàn chúng

Ðều đi theo xuất gia

Lại tám vạn bốn ngàn

Ðồng tử Bà la môn

Nghe vua bỏ thế tục

Cũng đến cầu xuất gia

Trưởng giả chủ tạng thần

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng với ngàn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia

Nữ báu Tỳ Xá Khư

Và con các thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến cầu xuất gia

Lại hơn trăm ngàn số

Người thiện nam thiện nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến cầu xuất gia

Ðấng hơn hết trời người

Ðại từ bi Thánh chúa

Khắp quán các tâm rồi

Bèn diễn nói pháp yếu

Bảo các người nên biết :

Từ Bi Thích Ca chúa

Dạy người tu chánh đạo

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc lấy hương tràng hoa

Phướng phan lọng nghiêm sức

Cúng dường Mâu Ni chúa

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc vật kim trầm thuỷ

Hương nê dùng bôi thoa

Cúng dường tháp Mâu Ni

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc quy Phật Pháp Tăng

Cung kính thường gần gũi

Nên tu các hạnh lành

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì theo chỗ học

Khéo giữ không khuyết phạm

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn phương Tăng

Cúng y phục ăn uống

Gồm cả thuốc thang hay

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn thời chay

Và ở thần thông nguyệt

Thụ trì tám chi giới

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Thần cảnh ký truyền dạy

Hoá đạo chúng Thanh Văn

Khiến trừ hết phiền hoặc

Hội đầu vì thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục

Ba lần nói pháp rồi

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các chúng đệ tử

Khất thực ở trong thành

Ðã vào thành Diệu Tràng

Ðường xá đều nghiêm sức

cúng dường Phật vậy

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ vương và Phạm Vương

Cùng với các thiên chúng

Dâng hương hoa cúng dường

Ðấng Ðại Từ Bi Tôn

Ðại oai đức chư thiên

Tán rải y phục đẹp

Chung quanh khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Ðại y vương

Dùng báu đẹp hương hoa

Rải trên các đường xá

Dùng để đi ở trên

Ví như bông tơ lụa

Âm thanhtràng phan

Bày hàng hai bên đường

Trời người chúng Ðế Thích

Khen ngợi đấng Ðại Từ

Nam Mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay Bạt Già Phạm !

Hay thương xót thế gian

Có trời Ðại Bi Ðức

Ðương làm vua chúng ma

Quy tâm chắp tay lễ

Chiêm ngưỡng đức Ðạo Sư

Phạm Vương các thiên chúng

Quyến thuộc mà vây quanh

Ðều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần nhiều A la hán

Từ bỏ nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não

Trời người chúng long thần

Càn Thát A tu la

La SátDược Xoa

Ðều hoan hỉ cúng dường

Khi đó các đại chúng

Dứt chướng trừ nghi hoặc

Vượt qua dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chúng

Lìa trược bỏ của báu

Vô ngã, ngã sở tâm

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chún

Phá tan lưới tham ái

Viên mãn tâm vắng lặng

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Ðấng Từ Thị trời người

Thương xót loài hữu tình

Sống lâu sáu vạn tuổi

Thuyết pháp độ chúng sinh

Hoá đủ trăm ngàn ức

Khiến qua biển phiền não

Có duyên đều cứu vớt

Mời vào cõi Niết Bàn

Ðấng Từ Thị Ðại Bi

Sau khi vào Niết Bàn

Chánh pháp ở lại đời

Cũng đủ sáu muôn năm

Nếu ở trong pháp ta

Tin sâu mà thọ trì

Ðương lai ngày hạ sinh

Phụng thờ đấng Ðại Bi

Nếu có thông tuệ ấy

Nghe nói việc như thế

Ai chẳng khỏi ham vui

Nguyện gặp đấng Từ Thị

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam Bảo

Siêng tu đừng phóng dật.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn vì ông Xá Lợi Phấtđại chúng nói việc đương lai đức Từ Thị rồi. Lại bảo Xá Lợi Phất rằng : Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe pháp nầy rồi, thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, theo như trong Kinh mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, viết chép Kinh điển, thì những người đó, đời đương lai sẽ được gặp đấng Từ Thị hạ sinh, ở trong ba hội được nhờ ơn cứu độ.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ xong, Xá Lợi Phấtđại chúng hoan hỉ tin thọ phụng hành.

Ðại từ đại bi thương chúng sinh

Ðại hỉ đại xả cứu muôn loài

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)

Na Mô Di Lặc Tôn Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

 

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49720)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34617)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33437)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43910)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57040)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47547)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52925)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40449)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46700)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28686)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29218)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33352)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60973)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39727)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26654)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29650)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40076)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28279)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34614)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30463)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28553)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30059)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25479)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26711)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27691)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27693)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35429)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31762)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant