Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Chương Thứ Nhất

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12834)
1. Chương Thứ Nhất
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

 

 

Chương thứ nhất

Tự luận

Tiết thứ nhất

 Tinh hoa của Phật giáo Đại thừa

Tịnh độ giáo thừa nhận sự tồn tại các Đức Phật và cõi nước thanh tịnh của chư Phật an trú, chúng sanh vãng sanh về cõi nước của các Ngài tiếp nhận sự giáo hóa của Đức Phật, có thể mau chóng thành tựu Phật đạo; đây là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa. Tóm lại, mười phương thế giới đều có các Đức PhậtTịnh độ của các Ngài tồn tại, đây là quan niệm phổ thông của Phật giáo Đại thừa. Bắt đầu từ kinh Bát-nhã đến các kinh A-súc, Vô Lượng Thọ, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Bảo tích, Niết-bàn v.v… trong các kinh điển Đại thừa đều có nói như thế. Trong Phật giáo Đại thừa, trước hết bồ-tát phải phát thệ nguyện lớn nghiêm tịnh cõi nước Phật, bồ-tát nào cũng tịnh hóa cõi nước mình cư trú. Vì thế, kiến thiết cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm là qui định chung của việc thành Phật. Đó là dựa vào thệ nguyện thanh tịnh cõi nước Phật mà tinh tiến tu hành để được thành Phật, nghĩa là đem các thệ nguyện rộng lớn đã tu từ thuở quá khứ đến hiện tại để trang nghiêm cõi Phật của mình. Đương nhiên, cũng không ít người giác ngộ trước kia đã đạt được nguyện vọng ấy, cho nên đưa đến kết quả là Phật giáo Đại thừa nói mười phương thế giới xuất hiện vô lượng các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng. Như thế là đã khẳng định sự tồn tại của các Đức Phật, đồng thời cổ xúy sự trang nghiêm, an lạc, thanh tịnh của cõi Phật. Nói chung, đạo tục đều cho đây là cõi nước an vui lí tưởng, sanh về cõi nước ấy bản thân mình tiếp nhận sự giáo hóa của Đức Phật, rất mong thấm nhuần niềm vui Phật pháp cũng là lẽ tất nhiên. Vì thế, nguồn gốc của pháp môn vãng sanh Tịnh độ là do sự phát triển của giáo lí thanh tịnh cõi nước Phật. Nói một cách khẳng định, giáo lí Tịnh độtinh hoa của Phật giáo Đại thừa.

Tiết thứ hai

Sự thành lập kinh điển

Hầu hết kinh điển Phật giáo là do các đại đệ tử Ma-ha Ca-diếp, A-nan v.v… kết tập sau khi Phật diệt độ không bao lâu, từ xưa đến nay mọi người đều tin chắc rằng kinh điển Phật giáo là do chính Đức Phật tuyên thuyết. Nhưng theo kết quả nghiên cứu thời gian gần đây, rất tiếc là đã phủ nhận điều này, ngọai trừ một số ít kinh điển ra, còn phần lớn kinh điển đều được lần lượt biên tập dần dần vào đời sau. Trong số đó, kinh điển Đại thừa đến mấy trăm năm sau Phật diệt độ mới được hoàn thành. Hoặc nói có một số ít kinh điển được biên tập lúc đầu, về sau tìm hiểu đến thời đại của chúng, mới biết có nhiều kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện ở đời. Tuy vậy, nhưng vẫn cho rằng các kinh điển Đại thừa này được thành lập là do căn cứ vào những lời thuyết pháp của Đức Phật mà thành. Sau khi trải qua sự khảo sát triệt để, phát huy đúng tinh thần của nó thì thấy rằng sự thật vẫn là những lời của Đức Phật nói.

Trong phẩm Vô tự tính tướng trong kinh Giải thâm mật có nói về ba thời thuyết pháp Hữu, Không, Trung như sau : “Một thuở nọ, lần đầu tiên Đức Thế Tôn ở trong rừng Thí Lộc, nơi tiên nhân bị đọa thuộc nước Ba-la-nê-tư, chỉ vì người hướng về thanh văn thừa mà chuyển chính pháp luân tứ đế. Tuy rất đặc biệt, rất hi hữu, tất cả hàng trời, người trong thế gian trước đây không ai có thể chuyển được pháp luân như thế. Nhưng pháp luân được chuyển lúc ấy còn có pháp cao vượt hơn nó, đây là pháp chưa liễu nghĩa, là pháp còn có chỗ để tranh luận. Xưa kia, Đức Thế Tôn trong thời pháp thứ hai chỉ vì người phát tâm tu pháp Đại thừa y cứ vào tất cả pháp đều vô tự tính, vô sanh, vô diệt, xưa nay vốn tịch tịnh, tự tính niết-bàn để chuyển chính pháp luân ẩn mật. Tuy rất kì đặc, rất hi hữu, nhưng pháp luân được chuyển lúc ấy cũng là pháp còn có pháp cao vượt hơn nó, vẫn chưa phải là pháp liễu nghĩa, còn có chỗ để tranh luận. Đến thời pháp thứ ba này, Đức Thế Tôn vì những người hướng đến tất cả thừa, y cứ tất cả pháp đều vô tự tính, vô sanh, vô diệt, xưa nay vốn tịch tịnh, tự tính niết-bàn, để chuyển chính pháp luân hiển liễu, kì đặc bậc nhất, hi hữu hơn hết. Hôm nay, Đức Thế Tôn đã chuyển pháp luân không có pháp nào cao vượt hơn, là pháp thật sự liễu nghĩa, chẳng còn chỗ để tranh luận.” ( Đại Chính, 16, 697, thượng).

Đây là theo quan điểm cho rằng Đức Thế Tôn đầu tiên nói Hữu trong kinh A-hàm; thời thứ hai nói Không trong kinh Bát-nhã; thời thứ ba nói Trung Đạo trong kinh Giải thâm mật. Nhưng đã ám chỉ sau Phật diệt độ khoảng bốn, năm trăm năm là thời đại A-hàm đầu tiên, kế đó khoảng hai, ba trăm năm sau là thời kì thứ hai Bát-nhã hưng thịnh; sau cùng thời kì thứ ba tức là thời đại kinh Giải thâm mật phát triển mạnh mẽ.

 

Tiết thứ ba

Sự xuất hiện của kinh Bát-chu Tam-muội

Các Đức Phật hiện tại xuất hiện trong mười phương được sùng bái sớm nhất có lẽ là hai vị Phật A-di-đà và A-súc. Trong đó, sự tích Phật A-di-đà được ghi chép trong kinh Bát-chu tam-muội, còn sự tích Phật A-súc được ghi chép trong kinh Đạo hành bát-nhã kinh A-súc Phật quốc; cả ba kinh này đều do ngài Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hậu Hán, chứng tỏ tín ngưỡng này đã được lưu hành ở đời từ thế kỉ thứ II trở về trước. Tìm hiểu về niên đại sớm nhất tất nhiên rất khó đoán định. Nhưng trong phẩm Thụ quyết của kinh Bát-chu tam-muội quyển trung, Đức Phật đã huyền kí rằng: “Sau khi Ta bát nê-hoàn, tam-muội này sẽ tồn tại bốn mươi năm; sau đó không còn hiện hữu. Vào thời loạn li sau này, lúc kinh Phật sắp diệt, các tì-kheo không còn vâng theo lời Phật dạy. Sau đó, trong thời loạn li các nước đánh nhau, lúc ấy tam-muội này sẽ xuất hiện lại ở cõi Diêm-phù-đề.” (Đại Chính,13, 911, thượng). Pháp Bát-chu tam-muội này, sau Phật diệt độ được lưu hành ở đời bốn mươi năm, sau đó ẩn mất. Về sau đời loạn li, các nước đánh nhau, lúc kinh Phật đoạn tuyệt, kinh này xuất hiện lại ở thế gian, điều này ám chỉ niên đại biên tập kinh này.

Đồng bản dị dịch với kinh này là phần Hiền Hộ trong kinh Đại phương đẳng đại tập quyển 3 ghi: “ Bạch Đức Thế Tôn! Trong một trăm năm cuối của năm trăm năm sau Phật diệt độ, lúc sa-môn điên đảo, lúc chính pháp sắp diệt, lúc chính pháp bị phỉ báng, lúc phi pháp lộng hành, lúc chúng sanh trược loạn, lúc các nước đánh nhau. Vào thời điểm đó, chúng con sẽ đem kinh Tam-muội này truyền bá ở Diêm-phù-đề.” ( Đại Chính,13, 884, trung). Điều này ứng hợp với thời điểm một trăm năm cuối của năm trăm năm sau Phật diệt độ.

Đại khái, trong kinh nói lúc đời li loạn, các nước đánh nhau chắc là chỉ cho thời đại sau khi vua A-dục băng hà, thiên hạ loạn li, cũng tức là chỉ cho các sự thật lịch sử khoảng thời gian 180 trước Công nguyên, tổ của vương triều Huân-ca (Sunga) Bổ-sa-mật-đa-la (Pusyamitra) hưng khởi, vương triều Khổng Tước (Maurya) diệt vong, Phật giáo ở các vùng Ma-kiệt-đà, Ca-thấp-di-la bị phá hoại khốc liệt. Vụ việc vua Bổ-sa-mật-đa-la phá hoại Phật pháp đươc ghi chép trong Tạp A-hàm quyển 25, A-dục vương truyện quyển 3, luận Đại Tì-bà-sa quyển 125 v.v… đều là những sự thật nổi tiếng. Nếu đúng là chỉ cho việc này thì thời điểm biên tập kinh Bát-chu tam-muội có lẽ là giữa thế kỉ II trước công nguyên.

Kinh Bát-chu Tam-muộikinh Đạo hành bát-nhã quyển 6 đều ghi: “ Có kẻ ngu si nói: ‘Những kinh này chẳng phải Phật nói’ ”. Phỉ báng kinh điển Đại thừa là do ma làm ra, chẳng đáng tín nhiệm. Đây là lúc kinh điển Đại thừa mới xuất hiện ở đời, các giáo đồ tin nhận giáo pháp Tiểu thừa bài xích Đại thừa chẳng phải do Phật nói, là chuyện thường thấy. Chẳng những như thế, ngay đầu thời đại vương triều Huân-ca, trên lan can của tháp Sanchi và tháp Bharhut đã thấy các phù điêu khắc hơn hai mươi hình về Bản sanh đàm như tiên nhân Thiểm, thái tử Tu-đại-noa, nai chín màu, vua khỉ v.v… Dựa vào đây, chúng ta có thể biết lúc đó tư tưởng bồ-tát hạnh đã thịnh hành. Do đó, thời đại này phát sanh thuyết chúng sanh tự giác có khả năng thành Phật. Tiếp theothành lập giáo lí tịnh cõi nước Phật, sanh ra thuyết hiện tại mười phương chư Phật xuất hiện. Đặc biệtcăn cứ vào sự tu trì của pháp Bát-chu tam-muội có thể ở trong định thấy Phật A-di-đà và mười phương chư Phật. Do đây, chúng ta có thể tưởng tượng kinh Bát-chu tam-muội này được các tín đồ Đại thừa thời kì đầu hết sức chú trọng.

Tiết thứ tư

Sự truyền bá tín ngưỡng Di-đà

Tín ngưỡng Phật A-di-đà được lưu hành rất sớm ở Ấn Độ và vùng Tây Vực (Trung Á), riêng ở Trung Quốc từ đời Hậu Hán trở về sau các kinh điểnliên quan đến Phật A-di-đà và cõi nước của Ngài không ngừng tiếp nối nhau được phiên dịch nhiều đến hơn hai trăm bộ. Chẳng những như thế, trong kinh Huệ ấn tam-muội ghi: “Đệ nhất phu nhân của vua Bình-sa tên Bạt-đà-tư-lị (mẹ vua A-xà-thế) về sau được sanh làm người nam ở cõi nước Tu-ha-ma-đề (An Lạc) được thấy Phật A-di-đà.”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Bà Vi-đề-hi nguyện vãng sanh Tây phương”. Kinh Đại bi, quyển 2 ghi: “Tì-kheo Kì-ba-ca ở Bắc Thiên Trúc tu tập vô lượng các thứ thiện căn bồ-đề thù thắng, khi mạng chung sanh về nước Vô Lượng Thọ ở phương Tây”. Kinh Đại pháp cổ quyển thượng ghi: “Trong hơn tám mươi năm sau, Phật nhập niết-bàn chính pháp sắp diệt, đồng tử dòng Li-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến trì niệm danh hiệu Phật chẳng màng đến thân mạng, tuyên dương kinh này, thọ mãn trăm tuổi sanh về nước An Lạc.” Kinh Văn-thù sư-lợi phát nguyện có nói: “Văn-thù-sư-lợi diện kiến Phật A-di-đà, phát thệ vãng sanh về nước An Lạc.” Phẩm Phổ hiền hạnh nguyện, kinh Hoa nghiêm quyển 40 có ghi bồ-tát Phổ Hiền cầu vãng sanh về nước An Lạc.

phẩm Dị hành trong luận Thập trụ tì-bà-sa, ngài Long Thọ đưa ra thuyết “xưng danh bất thoái” dùng ba mươi hai hàng kệ tán thán Phật A-di-đà. Kinh Nhập lăng-già quyển 9 có ghi lời huyền kí, ngài Long Thọ xuất thế tại một nước lớn ở Nam Thiên Trúc, phá hai kiến chấp hữu vô, thuyết pháp Đại thừa vô thượng, chứng đắc Hoan hỉ địa, vãng sanh về nước An Lạc. Mọi người đều công nhận do ảnh hưởng của ngài mà hình thành tín ngưỡng Tịnh độ Di-đà… Trong quyển Lịch sử Phật giáo Ấn Độ của Taranatha ghi: “Đệ tử của Đề-bà là La-hầu-la Bạt-đà-la quán thấy Phật Vô Lượng Quangvãng sanh thế giới Cực Lạc.” Việc này, nếu là sự thật thì có thể nói là do sự cảm hóa của ngài Long Thọ. Trong Long Thọ bồ-tát khuyến giới vương tụng do ngài Nghĩa Tịnh đời Đường dịch, ghi: Ngài Long Thọ đã từng gửi thư khuyên vua Satavahana của vương triều Andhra Nam Ấn Độ. Cuối thư có bốn câu kệ:

Sinh lão bệnh tử, ba độc trừ

Sinh về cõi Phật gặp từ phụ

Thọ mạng lâu dài đến vô lượng

Đồng Đấng Đại giác A-di-đà.

Do đó, chúng ta có thể biết ngài Long Thọ khuyên nhà vua vãng sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.

Kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 ghi: “Bảy trăm năm sau, Phật diệt độ, trong nước Vô MinhNam Thiên Trúc có nữ vương Tăng Trưởng hộ trì chính pháp, về sau chuyển thân nữ, vãng sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.”. Nhưng chỗ này nói nước Vô Minh, tên nước Andhra gần với từ Andra của Phạn ngữ có nghĩa mắt mù, có thể đây là do dịch lầm. Do vậy, nước Vô Minh tức chỉ nước Andhra, đồng thời vương nữ Tăng Trưởng cùng với vua Satavahana đều sanh vào niên đại bảy trăm năm sau Phật diệt độ, vì nhà vua này thụ nhận sự cảm hóa của ngài Long Thọ mà cầu sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ.

Trong luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính quyển 4 của ngài An Huệ có kệ hồi hướng: “Nguyện đến lúc mạng chung, thấy Phật Vô Lượng Thọ.”. Cho thấy ngài cũng là một người nguyện sanh Tây phương. Bồ-tát Thế Thân soạn Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá cổ xúy tín ngưỡng Di-đà, nguyện chúng sanh cùng vãng sanh về nước An Lạc. Kế đó, Mật giáo xiển dương thường đề cao đến công đức của thần chú A-di-đà v.v… Vì thế, họ cũng biên soạn nhiều kinh quỹ; ngoài việc đời vị lai vãng sanh mà đời hiện tại cũng được phúc đức. Ở Trung Quốc sự sùng bái Di-đà rất phổ biếnthịnh hành. Do đó, các tác phẩm văn hóaliên quan đến tín ngưỡng Di-đà như viết sách và tạo tượng được bảo tồn cũng nhiều. Pháp môn Tịnh độ lưu hành tại Nhật Bản cũng rất sớm, đặt biệt ngài Pháp Nhiên y cứ vào bản nguyện của Di-đà phát huy đến chỗ cùng tột, dựng lên một phong trào làm cho mọi người hướng về niềm tin Tịnh độ; do đó, giáo học về Tịnh độ phát triển mà trước đó chưa từng có.

 

Tiết thứ năm

Phạm vi trình bày của sách này

Do vì giáo học Tịnh độ quá rộng nên cần phải lấy việc nghiên cứu về lí luận và phương pháp tu hành thực tiễn của Tịnh độ làm mục đích. Nhưng vì các văn hiến về Tịnh độ của chư Phật khác chưa đầy đủ lắm. Vả lại, đại đa số nhân dân Trung QuốcNhật Bản đều lấy Phật A-di-đà làm đối tượng tín ngưỡng; vì thế, hiện nay lấy Phật A-di-đà và Tịnh độ của ngài làm luận đề chủ yếu, nên thử trình bày khái quát. Ngoài ra, còn có Tịnh độ được gọi là Thượng sanh Đâu-suất, nghĩa là lấy cõi trời Đâu-suất, nơi cư trú của bồ-tát Di-lặc làm tín ngưỡng cũng rất thịnh hành, ở Ấn Độ bắt đầu từ các ngài Bà-tu-mật, Di-đố-lộ-thi-lợi, Tăng-già-la-sát. Theo truyền thuyết các ngài Vô Trước, Sư Tử Giác đều nguyện sanh lên cõi trời này. Tại Trung Quốc, từ đời Phù Tần có ngài Đạo An, đời Đường có ngài Huyền Trang, Khuy Cơ v.v…tuyên dương tư tưởng ấy. Ở Nhật Bản có các ngài Minh Thuyên, Chân Hưng, Trinh Khánh, Cao Biện v.v…cũng đều nguyện sanh lên Đâu-suất. Mặc dù có thể nói đây là một tông phái lưu hành đồng thời với nguyện vãng sanh về Tây phương, nhưng đó là một loại vị lai giáo; vả lại, Đâu-suất cũng chẳng phải là Tịnh độ ‘nhân nguyện quả thành’. Lại nữa, Di-lặc là bồ-tát Bổ xứ đương lai, tạm thời cư trú tại cõi trời Đâu-suất, hoàn toàn bất đồng với tư tưởng Tịnh độ Phật A-di-đà; do đó, sách này chưa đề cập đến.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13693)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13769)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17689)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17099)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14424)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16739)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18594)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19028)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18841)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21147)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14780)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39152)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19347)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16137)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14890)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39102)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14367)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21439)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19682)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13877)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21891)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16734)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15232)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14337)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15645)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15003)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24657)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23095)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28531)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15060)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14102)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14629)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18282)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26507)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15180)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14830)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15188)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15133)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant