KINH ĐẠI-THỪA
BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường,
Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
XII.- PHẨM
THÀNH PHẬT [1]
Bấy
giờ, đức Thế-Tôn an-trụ trong pháp-giới thanh-tịnh, ba đời
bình-đẳng, không trước không sau, bất-động ngưng lặng,
thường không đoạn hết. Ánh sáng đại-trí soi khắp thế-giới.
Phương-tiện thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười
phương quốc-độ, đâu cũng cùng khắp. [2]
Khi
ấy, đức Thế-Tôn bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng:
“Người tu-hành Du-già [3] quán vành trăng rồi, nên quán
ba pháp đại-bí-mật. Những gì là ba? - Một là, tâm-bí-mật.
Hai là, ngữ-bí-mật. Ba là, thân-bí-mật. Thế nào gọi là
tâm-bí-mật-pháp? - Người tu-hành Du-già, quán trong mặt trăng
tròn đầy sinh ra cái chầy Ngũ cổ kim-cương [4] sắc
vàng, ánh sáng rực-rỡ như vàng chảy, phóng ra vô-số ánh-sáng
trắng lớn; lấy sự ấy mà quán-sát gọi là “tâm-bí-mật”.
Thế nào gọi là ngôn-ngữ bí-mật? - “Úm, địa thất-đa
bà nhĩ-la”. Đà-ra-ni ấy đủ uy-lực lớn, là chân-ngôn của
hết thảy Bồ-tát thành Phật, thế nên gọi là “ngữ-ngôn
bí-mật”. Thế nào gọi là “thân-bí-mật-pháp”? - Ở trong
đạo-tràng, đoan thân, chính-niệm, tay kết “Dẫn-đạo vô-thượng
bồ-đề tối đệ nhất ấn”, [5] đặt giữa tâm-nguyệt-luân
nơi ngực.
Thiện-nam-tử!
Tôi sẽ vì ông nói về tướng-dáng của ấn ấy: Trước tiên
lấy hai ngón tay cái của hai bàn tay tả, hữu, đều đặt
nó vào trong bàn tay tả, hữu và đều lấy ngón tay đầu (ngón
tay chỏ) ngón tay giữa cùng ngón tay thứ tư (ngón tay đeo nhẫn)
của bàn tay tả, tay hữu, rồi nắm chặt lấy ngón tay cái,
làm thành nắm tay, tức là “Kiên-lao kim-cương quyền-ấn”.
Sau, không đổi nắm tay, chỉ duỗi một ngón tay đầu (ngón
tay chỏ) của bàn tay tả, thẳng lên hư-không, rồi đem nắm
tay tả ấy đặt trên trái tim; ngón tay út của nắm tay hữu
nắm chặt lấy một đốt ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của
nắm tay tả, sau lại lấy đầu ngón tay đầu (ngón tay chỏ)
của nắm tay hữu, chỉ vào một đốt ngón tay cái của nắm
tay hữu. Và, cũng để trước trái tim, thế gọi là “Dẫn-đạo
vô-thượng bồ-đề đệ nhất trí-ấn”, cũng gọi là “Năng
diệt vô-minh hắc-ám đại-quang-minh ấn”. [6] Bởi kết
ấn ấy, có sức gia-trì, nên được chư Phật mười phương
thoa đầu hành-giả và trao cho “Đại-bồ-đề thắng quyết-định
ký”, là “Đại-tỳ-lư-già-na Như-Lai vô-lượng phúc-tụ
đại-diệu trí-ấn”. [7]
Khi
hành-giả kết ấn ấy rồi, liền làm quán này: “Hết thảy
chúng-sinh cùng kết ấn này, trì-niệm chân-ngôn, mười phương
thế-giới không bị quả-khổ trong ba đường ác và tám nạn,
mà cùng được hưởng pháp-lạc thanh-tịnh thứ nhất. Nay
trên đầu ta có mũ đại-bảo, trong mũ thiên-quan ấy năm đức
Phật Như-Lai ngồi kết gia-phu, ta là Tỳ-lư-già-na Như-Lai,
đầy-đủ viên-mãn ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt,
phóng ra hào-quang sáng lớn soi khắp mười phương, đem lại
lợi-ích an-vui cho hết thảy chúng-sinh”. Quán-sát như thế
gọi là “Nhập Tỳ-lư-già-na Như-Lai tối-thắng tam-muội”.
[8]
Ví
như có người ngộ được quán-môn “Ca-lư” vi-diệu, tự
làm quán này: “Thân ta tức là thân chim Kim-sí đầu đàn,
tâm, ý, ngữ-ngôn cũng lại như thế. Dùng sức quán ấy làm
tiêu-tan thuốc độc, hết thảy ác-độc không làm hại được”.
Người phàm-phu tu-hành cũng như thế, ngồi kiểu ngồi hàng-phục,
thân không rung-động, tay kết trí-ấn, mật-niệm chân-ngôn,
tâm nhập quán này, diệt được ba độc, tiêu-trừ nghiệp-chướng,
tăng-trưởng phúc-trí, và những nguyện ở thế-gian hay xuất-thế-gian
mau được viên-mãn; tám vạn bốn nghìn các phiền-não-chướng
không hiện-khởi được, Hằng-hà-sa sở-tri-chướng cực-trọng
dần dần tiêu-diệt, vô-lậu đại-trí: “năng đoạn kim-cương
Bát-nhã ba-la-mật” viên-mãn hiện-tiền, chóng được vô-thượng
chính-đẳng chính-giác. [9]
Lúc
đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Đức Thế-Tôn
hiếm có! Đấng Thiện-Thệ hiếm có! Đức Như-Lai ra đời
còn hiếm có hơn hoa Ưu-đàm, và giả-sử Ngài ra đời mà
nói ra pháp này cũng khó. Ba pháp bí-mật vô-thượng pháp-luân
của tâm-địa như thế, thực là lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh,
là đường chính chân-thực vào Như-Lai-địa và Bồ-tát-địa.
Nếu có chúng-sinh nào không tiếc thân-mệnh mà tu-hành pháp
ấy sẽ chóng chứng được Bồ-đề. [10]
Bấy
giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Nếu
có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn tu-tập được
ba diệu-môn bí-mật thành Phật, sớm được thân công-đức
của Như-Lai, nên mặc ba mươi hai thứ áo giáp đại-kim-cương
của Bồ-tát mà tu diệu-quán ấy, thời quyết chứng được
pháp-thân thanh-tịnh của Như-lai.
Những
gì là ba mươi hai thứ áo giáp ấy?- Một là, mặc áo đại-giáp
thụ-khổ: ở trong vô-lượng kiếp vì chúng-sinh chịu khổ
mà không chán sinh-tử. Hai là, mặc áo đại-giáp bất xả:
thề độ vô-lượng hữu-tình cho đến con sâu, con kiến cũng
không bỏ. Ba là, mặc áo đại-giáp bí-mật: giác-ngộ chúng-sinh
trong giấc mộng dài sinh-tử, an-trí họ vào ba pháp bí-mật.
Bốn là, mặc áo đại-giáp hộ-pháp: ủng-hộ Phật-pháp trong
hết thảy thời cũng như vang ứng tiếng. Năm là, mặc áo
kim-cương đại-giáp: diệt hẳn sự khởi lên hai kiến “hữu,
vô” (có, không) và hết thảy phiền-não. Sáu là, mặc áo
đại-giáp năng-xả: dù đầu, mắt, tủy, óc, vợ, con, ngọc
báu… có người lại xin đều xả cả. Bảy là, mặc áo đại-giáp
năng-thí: hết thảy đồ vui mà trong nhà hưởng-thụ, quyết
không tham-trước, đem cho tất cả. Tám là, mặc áo đại-giáp
năng-trì: hay giữ tam-tụ-tịnh-giới của Bồ-tát và không
rời bỏ hạnh Đầu-đà. Chín là, mặc áo đại-giáp nhẫn-nhục:
mặc áo nhẫn-nhục, gặp các duyên trái ngược như hủy-mạ,
đánh-đập… vẫn không báo-thù lại. Mười là, mặc áo đại-giáp
hồi tâm: giáo-hóa những bậc Duyên-giác, Thanh-văn, khiến
họ hồi tâm đi về Nhất-thừa. Mười một là, mặc áo đại-giáp
tinh-tiến: tinh-tiến độ các hữu-tình, ví như gió lớn ngày
đêm không ngừng. Mười hai là, mặc áo đại-giáp tu-hành
giải-thoát tam-muội: thân-tâm tịch-tĩnh, miệng không phạm
lỗi. Mười ba là, mặc áo đại-giáp bình-đẳng: làm lợi-ích
chúng-sinh, coi sinh-tử và Niết-bàn không có hai thiên-kiến.
Mười bốn là, mặc áo đại-giáp dữ lạc (cho vui): đem vô-duyên
đại-từ, làm lợi-ích mọi loài, luôn luôn không chán bỏ.
Mười lăm là, mặc áo đại-giáp bạt-khổ (nhổ khổ): đem
vô-ngại đại-bi, cứu-nhiếp hết thảy, không có hạn-lượng.
Mười sáu là, mặc áo đại-giáp đại-hỷ (rất vui): đối
với các chúng-sinh không oán-kết, luôn luôn làm việc lợi-ích.
Mười bảy là, mặc áo đại-giáp đại-xả (bỏ hết): tuy
làm hạnh khổ không sợ nhọc-mệt, luôn luôn không thoái-chuyển.
Mười tám là, mặc áo đại-giáp bất-yếm (không chán): chúng-sinh
có sự đau-khổ lại nơi Bồ-tát, Bồ-tát chịu thay khổ cho
chúng-sinh kia mà không chán-ngán. Mười chín là, mặc áo đại-giáp
giải-thoát năng-kiến: sự xem trông rõ-ràng như xem quả A-ma-lặc
[11] trong bàn tay, như thế là giải-thoát được sự thấy
(năng-kiến). Hai mươi là, mặc áo đại-giáp vô-trước (không
chấp-trước): thấy thân ngũ-uẩn như bọn Chiên-đà-la (đồ-tể),
tổn-hại việc thiện. Hai mươi mốt là, mặc áo đại-giáp
yếm-xả (chán bỏ): thấy mười hai nhập (6 căn, 6 trần) như
làng xóm trống, thường mang lòng sợ-hãi. Hai mươi hai là,
mặc áo đại-giáp đại-trí: thấy mười tám giới (6 căn,
6 trần, 6 thức) cũng như huyễn-hóa, không có chân-thực. Hai
mươi ba là, mặc áo đại-giáp chứng-chân (chứng lý chân-như):
thấy hết thảy pháp, đồng trong pháp-giới, không thấy có
mọi tướng sai-khác. Hai mươi bốn là, mặc áo đại-giáp
xuất-thế: che điều ác của người, không dấu lỗi ác của
mình, chán, bỏ ba cõi. Hai mươi lăm là, mặc áo đại-giáp
hóa-độ: như đại-y-vương, hợp bệnh cho thuốc, Bồ-tát
tùy-nghi mà diễn-hóa. Hai mươi sáu là, mặc áo đại-giáp
quy nhất (về một): thấy chân-thể của Tam thừa kia vốn
không khác, cứu-cánh đồng tâm quay về nơi một. (một chân-như
pháp-giới, hay một Nhất-thừa Phật-quả). Hai mươi bảy là,
mặc áo đại-giáp độ nhân (độ người): nối Tam-bảo-chủng,
khiến không đoạn-tuyệt, quay xe diệu-pháp độ người. Hai
mươi tám là, mặc áo đại-giáp tu-đạo: Phật đối với
chúng-sinh có ân-đức lớn, vì muốn báo ơn Phật, cần tu
Phật-đạo. Hai mươi chín là, mặc áo đại-giáp vô-cấu (không
nhơ): quán bản-tính của hết thảy pháp không-tịch, không
sinh, không diệt, không nhơ. Ba mươi là, mặc áo đại-giáp
vô-ngại (không ngăn-ngại): ngộ Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni,
nhạo-thuyết biện-tài vô-ngại. Ba mươi mốt là, mặc áo
đại-giáp, rộng hóa hữu-tình khiến họ được ngồi dưới
cây Bồ-đề, chứng Phật-quả nhất-vị. Ba mươi hai là, mặc
áo đại-giáp, trong một sát-na tâm tương-ứng với bát-nhã
(Phật-trí), chứng-ngộ đại-pháp vô-dư trong ba đời. Thế
gọi là ba mươi hai thứ Kim-cương đại-giáp của Đại-bồ-tát.
Bồ-tát
Văn-thù-sư-lỵ! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào
thân mặc giáp-trụ kim-cương như thế, nên chăm tu-tập ba
pháp bí-mật, trong đời hiện-tại đủ phúc-trí lớn, mau
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề. [12]
Khi
ấy, đại-thánh Văn-thù-sư-lỵ Bồ-tát ma-ha-tát cùng đại
chúng nghe đức Phật nói về ba môn bí-mật tâm-địa diệu-pháp
và ba mươi hai thứ kim-cương giáp-trụ, hết thảy Bồ-tát
ở nơi cần học (hữu-học-địa), đều cổi những chuỗi
ngọc, áo báu vô-giá, cúng-dàng lên Tỳ-lư-già-na Như-Lai cùng
các Thế-Tôn trong mười phương mà tán-thán Phật rằng: “Lành
thay, lành thay! Thế-Tôn diễn nói vô-biên hành-nguyện của
Bồ-tát, đem lại lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh,
bỏ thân phàm-phu, chứng-nhập Phật-địa. Nay chúng tôi ở
trong hải-hội đại-chúng này, vì báo ơn Phật không tiếc
thân-mệnh và vì các chúng-sinh xin vào khắp các quốc-độ,
phân-biệt diễn nói pháp vi-diệu này cùng thụ-trì, đọc
tụng, viết chép lưu-bá, khiến diệu-pháp này không đoạn-tuyệt.
Kính xin Như-Lai xa xa rủ lòng hộ-niệm!”
Đại-hội
nghe diệu-pháp ấy được lợi-ích lớn, vô số Bồ-tát không
thể kể xiết đều chứng-ngộ được ngôi Bất-thoái và
hết thảy Nhân, Thiên đều được thắng-lợi. Cho đến hết
thảy hữu-tình trong năm thú, dứt bỏ được các trọng-chướng,
được vô-lượng sự an-vui và đều sẽ được vô-thượng
chính-đẳng chíng-giác. [13]
TOÁT-YẾU
XII.-
PHẨM THÀNH PHẬT
Khi
ấy đức Thế-Tôn an-trụ trong pháp giới thanh-tịnh, bình-đẳng,
vô-thủy, vô chung. Ánh sáng đại-trí soi khắp, phương-tiện
thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười phương,
Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Người tu-hành quán vành
trăng rồi, nên quán 3 pháp đại-bí-mật:
1/
Tâm-bí-mật: quán mặt trăng tròn sinh 5 loại Kim-cương sắc
vàng, phóng ra ánh sáng trắng lớn.
2/
Ngữ-bí-mật: miệng tụng thần-chú của Phật, Bồ-tát.
3/
Thân-bí-mật: ngồi ngay nghiêm, niệm chân-chính, tay kết “dẫn-đạo
vô-thượng bồ-đề tối đệ nhất ấn”, đặt giữa tâm-nguyệt-luân.
Người tu-hành kết-ấn rồi, liền quán: “Trì-niệm chân-ngôn,
chúng-sinh trong 10 phương thế-giới không bị quả khổ, tam
đồ, bát nạn, mà được hưởng pháp lạc thanh-tịnh. Trên
đầu ta có mũ đại-bảo, có 5 đức Phật ngồi kết gia-phu.
Ta là Tỳ-lư-già-na Như-Lai đủ 32 tướng, 80 thứ tốt phóng
hào-quang soi khắp mười phương đem lại lợi-ích cho chúng-sinh”.
Đức
Phật nói tiếp: “Nếu ai muốn tu được 3 diệu-môn bí-mật
thành Phật, chóng được thân công-đức của Như-Lai nên mặc
32 thứ áo giáp đại-kim-cương của Bồ-tát mà tu diệu-quán
ấy, thời quyết chứng được pháp-thân thanh-tịnh của Như-Lai.
Và, nếu ai mặc áo giáp-trụ kim-cương, chăm tu 3 pháp bí-mật,
hiện-tại đủ phúc-trí, mau chứng được vô-thượng bồ-đề”.
Đại-bồ-tát
Văn-thù, các Đại-bồ-tát khác cùng đại-chúng nghe đức
Phật nói pháp ấy, đều cởi các chuỗi ngọc, áo báu cúng-dàng
lên đức Phật Tỳ-lư-già-na cùng mười phương chư Phật
rồi tán-thán và phát-nguyện: “Nguyện không tiếc thân-mệnh,
vì chúng-sinh xin vào khắp quốc-độ nói pháp vi-diệu này
và thụ-trì, đọc-tụng, viết chép lưu-bá để pháp này không
đoạn-tuyệt”.
Tới
đây, vô-lượng Bồ-tát được ngôi Bất-thoái, Nhân, Thiên
được thắng-lợi, chúng-sinh trong 5 thú khỏi trọng-chướng,
được an-vui và sẽ được vô-thượng-giác.
[1] Thành Phật: Nhân-vị Bồ-tát do tu muôn hạnh, rốt-ráo thành-tựu
Phật-quả vô-thượng chính-đẳng chính-giác, gọi là “thành
Phật”. Thành Phật có 4 bậc: 1/ Tín-mãn thành Phật: Y vào
sự quyết-định nơi chủng-tính (hạt giống sẵn có), tin
các pháp không sinh-diệt, thanh-tịnh, bình-đẳng, không thể
nguyện-cầu, đó là “Tín-mãn thành Phật”. 2/ Giải-mãn
thành Phật: Y vào nơi giải-hành (hiểu biết tu-hành), hiểu
sâu về pháp-tính là không tạo-tác, không khởi ra tưởng
sinh-tử, không khởi ra tưởng Niết-bàn, tâm không sợ-hãi,
cũng không vui mừng, đó là “Giải-mãn thành Phật”. 3/ Hành-mãn
thành Phật: Y vào nơi cứu-cánh của Bồ-tát, trừ được
hết thảy pháp-chướng vô-minh, nguyện-hành Bồ-đề đều
đầy-đủ, đó là “Hành-mãn thành Phật”. 4/ Chứng-mãn
thành Phật: Y nơi tịnh-tâm, được pháp-trí tịch-tĩnh vô-phân-biệt
và những công-đức thắng-diệu không thể nghĩ, bàn được,
đó là “Chứng-mãn thành Phật”.
[2] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “cùng khắp”
trình bày về 3 thân của Phật: Từ chỗ “an-trụ” đến
chữ “hết” nói về thể-dụng của Pháp-thân Phật. Pháp-thân
Phật lấy pháp-giới-tính làm thân, pháp-giới-tính trong sạch,
thường hằng, không phân-biệt. Câu “Ánh-sáng…” trình-bày
về thể-dụng của Tự-thụ-dụng-thân Phật. Ánh-sáng trí-tuệ
có được, do tu vô-lượng công-đức thành, thành rồi đem
lại sự soi sáng cho tất cả, đó là viên-mãn Báo-thân Phật.
Câu “Phương-tiện”…trình-bày về công-dụng của Tha-thụ-dụng-thân
và Biến-hóa-thân. Phật vì giáo-hóa hàng Thập-địa, ứng-hiện
Thụ-dụng-thân, độ các bậc Thánh khác và độ khắp chúng-sinh
nên ứng-hiện ra Biến-hóa-thân.
[3] Du-già (Yoga): Có nghĩa là “tương-ứng” (ứng hợp nhau):
nghĩa là người tu (quán) và pháp tu (quán) ứng-hợp nhau. Tương-ứng
có 5 nghĩa: 1/ Cảnh tương-ứng: không trái với tự-tính của
các pháp (sự-vật). 2/ Hành-tương-ứng: những công-hành về
định, tuệ…ứng hợp nhau. 3/ Lý-tương-ứng: hợp với hai
lẽ thực (đế-lý) của sự an-lập hay phi-an-lập. 4/ Quả-tương-ứng:
chứng được quả vô-thượng bồ-đề. 5/ Cơ-tương-ứng:
chứng quả viên-mãn rồi, làm việc lợi-sinh, cứu vật, ứng-hợp
căn-cơ chúng-sinh mà cho thuốc. Theo chỗ tu, Duy-thức hay dùng
“Lý-tương-ứng”, Mật-tôn thời dùng “Hành-tương-ứng”.
Ngay câu “Du-già” trong chính-văn này cũng thuộc về “Hành-tương-ứng”.
Hành-tương-ứng lấy tam-mật (3 pháp bí-mật: thân, khẩu,
ý-mật) làm phương-châm.
[4] Ngũ cổ kim-cương: Còn gọi là “Ngũ trí kim-cương-chữ”
nghĩa là cái chầy kim-cương có đầy-đủ diệu-lực của
5 trí, thành 5 đức Phật: 1/ Pháp-giới thể-tính-trí thành
Đại-Nhật Như-Lai. 2/ Đại-viên-kính-trí thành A-xúc Như-Lai.
3/ Bình-đẳng-tính-trí thành Bảo-sinh Như-Lai. 4/ Diệu-quán-sát-trí
thành Vô-lượng-thọ Như-Lai. 5/ Thành-sở-tác-trí thành Bất-không
thành-tựu Như-Lai. Chữ “cổ” đây có nghĩa là chi, là loại.
“Ngũ cổ kim-cương”, tức là 5 loại (hay 5 trí) kim-cương
ở trên.
[5] Dẫn đạo…: Biểu-thị phương-pháp dắt-dẫn Bồ-tát tới
chỗ thành Phật.
[6] Năng-diệt….Ý nói: dẫn-dắt Bồ-tát tới Bồ-đề, tức
là đạt tới trí-tuệ viên-minh, do trí-tuệ này phá-diệt
tận cùng những vô-minh si-ám.
[7] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “trí-ấn”,
đức Phật dạy người tu-hành cần phải thực hành tam-mật
là tâm-bí-mật, ngữ-bí-mật và thân-bí-mật. Tâm-bí-mật
quán-tưởng, ngữ-bí-mật đọc chú, thân-bí-mật kết-ấn.
Thực hành được thế, được chư Phật mười phương ghi
nhận là quyết-định thành Phật. Thành Phật tức là được
đầy đủ phúc-đức và trí-tuệ, thể-nhập tất cả và soi
sáng tất cả như Tỳ-lư-già-na Phật (Tỳ-lư-già-na có nghĩa
là cùng khắp tất cả).
[8] Đoạn trên, từ chỗ “Khi hành-giả”, đến chỗ “tam-muội”,
quán tự-thân là Phật, đem lại lợi-ích cho chúng-sinh.
[9] Đoạn trên, từ chỗ “Ví như”, đến chỗ “chính-giác”,
ví-dụ cho diệu-pháp thù-thắng. Quán-môn Ca-lâu-la (chim Kim-sí)
của thế-gian làm tiêu-tan thuốc độc, thì diệu-quán này
cũng như gươm trí-tuệ kim-cương đoạn diệt hết thảy tội-chướng
phiền-não, thành vô-thượng-giác.
[10] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó”, đến chỗ “Bồ-đề”,
Bồ-tát Văn-thù tán-thán pháp-môn Phật nói và khuyên chúng-sinh
thực-hành.
[11] A-ma-lặc (Amala): Tên một thứ quả của Ấn-độ, Tàu dịch
là “Vô-cấu thanh-tịnh”.
[12] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “Bồ-đề”,
đức Phật dạy người tu-hành muốn tâm, ngữ, thân chóng
thành-tựu, cần thực-hành 32 pháp. 32 pháp ấy coi như mặc
32 áo giáp kim-cương, hy-sinh cương-quyết chiến-đấu với
tất cả phiền-não, để mình và chúng-sinh chóng đạt tới
chỗ chứng-ngộ trí-tuệ cứu-cánh vô-dư của chư Phật trong
ba đời.
[13] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “chính-giác”,
đại-chúng nghe Phật nói xong pháp-môn này, ai nấy đều vui
mừng đem những đồ trân-bảo cúng-dàng lên chư Phật mười
phương. Và, tán-thán, phát-nguyện: “phân-thân truyền-bá
pháp-môn này.” Trong đại-hội được nhiều lợi-ích lớn.
IX.- PHẨM
CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM [1]
Bấy
giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức thành-tựu
sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức
gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức
Thế-Tôn vì tôi mà giải-thuyết cho”.
Lúc
đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Các ông, thiện-nam-tử!
Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở
nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy
là gì? Là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não, tức là
tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở
nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị
người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi
theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới
phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là người ấy không
biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm
cảnh [2] từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở
nơi A-lan-nhã được bằng cách toàn-thiện. Bởi nhân-duyên
ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi tịch-tĩnh, cầu
vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt,
nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời
vô-thủy đến ngày nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ
nào ra được là đều tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo,
đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái nhiễm-trước”. Bồ-tát
như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã.
Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được
thành Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi
khổ trong ba cõi, phá bốn ma-quân [3] chóng thành Bồ-đề,
chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên, long
tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân
nào lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã như thế, được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như
có người đem mọi thứ trân bảo cúng-dàng bi-mẫu được
công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế không
khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác, quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng
khiến không đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh.
[4]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp ràng-buộc người tu hành,
làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một
là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu,
đồ vui.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không chịu đựng ở nơi
A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu
mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không nên ở nơi A-lan-nhã:
Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời Phật. Hai là,
hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những
người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng.
[5]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức cần nên an trụ
nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe giỏi):
tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu
biết rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn
không phóng-dật. Bốn là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành.
Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn thắng-đức
như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát, cầu
đạo vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, trang-nghiêm
tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn?
Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn
là, đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết
thảy phúc-đức, trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng
chúng-sinh, chóng chứng pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.
Lại
nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, giữ giới thanh-tịnh,
đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường trụ
trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh
Đầu-đà. Ba là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn
lừa, nịnh, ghen-ghét. Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào
bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được Đại-bồ-đề. [6]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp tóm
thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ giới
cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định,
đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông,
tu cả chủng-trí. Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không
phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, các Bồ-tát
trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia đủ bốn pháp, đối
với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là
bốn? Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn
là, đồng sự. Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường
đi tới Bồ-đề, là căn-bản lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát
đều nên tu học.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại đủ bốn đức
ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính,
để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là,
quán-sát tha-thân cũng không có bản-tính, để đối với kẻ
oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc,
để tâm và tâm sở-pháp không còn phân-biệt. Bốn là, được
bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có sự sai
khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát
nên tu-tập, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới
đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát lại có bốn nguyện
làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi Tam-bảo
trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những
gì là bốn? - Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là,
thề đoạn hết thảy phiền-não. Ba là, thề học hết thảy
pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy Phật-quả. Thiện-nam-tử!
Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập,
vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp ở
nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? - Một
là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ.
Hai là, được sự không sợ hãi, vì chứng được chính-định.
Ba là, đối với các chúng-sinh khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn
là, đối với hai thứ vô-ngã [7] , không có tâm chán-ngán.
Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu của hết
thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy
dứt bỏ được hai chướng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp, ở
nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là bốn? - Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ ngã-sở-kiến.
Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng
về mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế,
trừ được sự hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới,
trang-nghiêm tự thân.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm diệu-hạnh,
cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? - Một là, quán-sát
năm uẩn sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như
làng xóm trống. Ba là, quán-sát mười tám giới tính đồng
pháp-giới. Bốn là, đối với pháp tục-đế [8] không
bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy
Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên
một lòng tu-tập, cầu đạo vô-thượng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những
gì là bốn? - Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”.
Hai là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu
quán “bất kiến-ý”. Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến,
thành-tựu quán “nhất-thiết-trí” [9] . Thiện-nam-tử! Nếu
có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế, hiện-thân
chứng được “chính-tính ly-sinh” [10] , cho đến chóng chứng
được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử
các ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng
bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh,
khiến chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
[11]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội
thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh.
Ba là, xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục
thân-tâm, Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội
thanh-tịnh. Sáu là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy
là, xa-lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội
thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói pháp không cầu lợi-dưỡng,
Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập sẽ chóng
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? - Một là,
năm uẩn thiện-sảo [12] , trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười
hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Ba là, mười tám giới
thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai căn
[13] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm
là, ba giải-thoát-môn thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Sáu là, hay diệt hết thảy phiền-não thiện-sảo phương-tiện,
trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt tùy phiền-não [14] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt
sáu mươi hai kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Thiện-nam-tử! Tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát
các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng
chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là tám? - Một là, đối với mọi sắc-pháp [15] không
bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với
cảnh thanh-trần (tiếng), không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ
thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông).
Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của chúng-sinh không
bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi
sinh, nơi chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được
Túc-trụ-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh
(Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp vô-số cõi Phật trong mười
phương không bị chướng-ngại, được Thần-cảnh-trí thiện-sảo
phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thần-túc-thông). Sáu
là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay chưa hết
không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện
thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được
hết thảy phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện
thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân hồi-hướng chúng-sinh
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong
mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, hiện thân
được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là, thân-nghiệp
thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp
thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính [16] thanh-tịnh. Năm là,
chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh. Bảy là,
lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm
Bồ-đề thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ thanh-tịnh như thế, hiện-thân
thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị thoái-chuyển đạo
vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có tám thứ: Đa-văn
(nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn thanh-tịnh.
Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn thanh-tịnh.
Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là, an-trụ
chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp,
nói nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ
mình, chê người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát
hết thảy thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe
chính-pháp, y như chỗ nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ đa-văn thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều
nên tu-tập, sẽ chóng chứng được Vô-thượng chính đẳng
Bồ-đề! [17]
Khi
đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát như thế rồi, Ngài
bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi
nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt,
vô-lượng chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai,
phát-tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã,
vì đạo vô-thượng, tu-tập những hạnh-nguyện Bồ-tát như
thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển.
Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được
sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc
Bồ-tát) vô-biên phúc-trí trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử,
chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai sau ngồi dưới cây
Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Trong
lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai vạn năm nghìn vị Bồ-tát
mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị thoái-chuyển,
nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi Thập-tín
đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn
tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và
Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng,
vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]
TOÁT-YẾU
IX.-
PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM
Đại-bồ-tát
Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức
gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”
Đức
Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ cần tu một pháp là
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”,
là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai
không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của
5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn nhiễm-trước vào 6 trần, chưa
thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi tịch-tĩnh thấy
cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới
nay bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh
ra mê-hoặc, điên-đảo, tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như
thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau sẽ thành Phật
và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.
Có
những hạng người không ở nơi A-lan-nhã được: hạng người
thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui, kiêu-mạn, ghét
giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá
giới sai trì giới.
Những
người ở nơi A-lan-nhã có những đức sau đây: Đầy đủ
danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh, chính-niệm, tùy
thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4 vô-cấu-tính,
thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ
hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định,
đủ trí-tuệ, được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện,
không phóng-dật. Đủ bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự.
Quán tự thân không bản-tính, quán tha-thân không bản-tính,
thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn phiền-não,
độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích không-tính,
được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã.
Bỏ ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt,
quán 12 nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng
pháp-giới, tục-đế-pháp không bỏ không ham. Thành-tựu: quán
bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ, bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí.
(Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy, hiện-thân chứng
được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).
Đầy
đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8 pháp trí-tuệ thanh-tịnh,
8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8 thứ thanh-tịnh.
Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Đức
Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Sau khi Tôi nhập-diệt
chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm vô-thượng vào
nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều
chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp
ông (Di-Lặc) chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.
Khi
nghe đức Phật nói Pháp ấy xong, 15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố,
qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn
được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người phát tâm
vô-thượng-giác.
[1] Công-đức trang-nghiêm: “Công” là công-năng trong việc lợi-ích,
phúc-đức; công-năng ấy là đức của thiện-hạnh, nên gọi
là “công-đức”. “Đức” còn có nghĩa là được, do công
tu mà được, gọi là “Công-đức”. “Trang-nghiêm” có
nghĩa là đem những cái hay, cái đẹp, tô-điểm cho đất nước
huy-hoàng, hoặc đem những công-đức tô-điểm cho thân-thể
nghiêm-trang, đẹp-đẽ. Nơi đây, các Bồ-tát đem công-đức
tu được, tô-điểm cho tự-thân, quốc-giới, chúng-sinh được
tốt đẹp.
[2] Năm cảnh: Tức sắc, thanh, hương, vị và xúc.
[3] Bốn ma-quân: 1/ Phiền-não-ma: tham, sân, si…, làm não-hại
thân-tâm nên gọi là ma. 2/ Ngũ-ấm-ma: 5 thứ: sắc, thụ, tưởng,
hành, thức hay sinh ra mọi khổ-não nên gọi là ma. 3/ Tử-ma:
sự chết hay dứt thân-mệnh người ta, nên gọi là ma. 4/ Thiên-ma:
cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hay làm hại việc thiện của người
nên gọi là thiên-ma (ma nơi cõi trời).
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “chúng-sinh”,
Bồ-tát Di-Lặc hỏi về công-đức tu của Bồ-tát, đức Phật
thuyết-minh về một đức mà các Bồ-tát cần tu, đó là đức
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự tâm”.
Nghĩa là, tâm thanh-tịnh không nhiễm. Người được thế là
chân-Phật-tử, nên cúng-dàng.
[5] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “vô-thượng”,
đức Phật thuyết-minh về hai lỗi mà người ở Lan-nhã cần
xa tránh, như những người cho không có nhân-quả, chỉ một
đời là hết v.v…
[6] Chỗ này còn một đoạn: “Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát
xuất-gia lại có 4 pháp khỏi hẳn sinh-tử được đại-bồ-đề”.-
Vì không có những câu sau nữa, sợ lầm, nên không để trên
chính-văn, mà ghi đây để tồn cổ (lời dịch-giả)
[7] Hai thứ vô-ngã: 1/ Nhân-vô-ngã: Cái ta tự-thể, tự-chủ là
“ngã”. Người ta không hiểu thấu nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
cố chấp thân-thể con người là thực, có tự-chủ, tự-tại
gọi là “nhân-ngã”. Nay hiểu rõ nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
thấu suốt đến chỗ thực không có thực-thể của con người
là “Nhân-vô-ngã”. Đó là sự quán đạo của Tiểu-thừa
để dứt phiền-não-chướng, chứng Niết-bàn vậy. 2/ Pháp
vô-ngã: Cố chấp các pháp (sự vật) có thực-thể, thực-dụng
là “pháp-ngã”. Nay hiểu rõ các pháp do nhân-duyên-sinh, thấu
suốt đến chỗ thực không có tự-tính là “Pháp-vô-ngã”.
Đó là quán-đạo của Đại-thừa Bồ-tát, để dứt sở-tri-chướng,
mà được Bồ-đề vậy. Tiểu-thừa chỉ ngộ có “nhân-vô-ngã”,
nhưng Bồ-tát ngộ cả 2 thứ vô-ngã.
[8] Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “Thế-đế”.
Trái với Tục-đế là “Chân-đế”. Chân-đế là thực-nghĩa
của chân-lý. Là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhân thấy.
Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế”.
[9] 4 pháp trên là quán về thân, khẩu, ý và 62 kiến. Quán thân
như-huyễn, không khởi ra sự chấp-trước về thân-kiến.
Quán ngôn-ngữ tính không, không khởi ra 4 sự bất thiện về
nghiệp khẩu. Quán ý, tức tâm, tâm sở đều do duyên-khởi,
không có tự-tính, tức không khởi ra sự phân-biệt. Quán
62 kiến, bỏ hết thảy tà-kiến.
[10] Chính-tính ly-sinh: Còn gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Sinh vô-lậu-trí
dứt trừ phiền-não, nên gọi là “Thánh-tính”. Thanh-văn,
Duyên-giác vào ngôi Kiến-đạo, sinh được một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt phiền-não-chướng; Bồ-tát sinh một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt trừ cả hai chướng: phiền-não và sở-tri, nhân
đó mà được một phần Thánh-tính, xa lìa hẳn sự sinh-khởi
của dị-tính (phàm-phu), nên gọi là “Thánh-tính ly-sinh”.
Chữ “Thánh” có nghĩa là “chính”, nên “Thánh-tính ly-sinh”
tức là “chính-tính ly-sinh”.
[11] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa thiện-nam-tử! Người đủ
4 đức…”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật thuyết-minh
về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần có 11 loại thuộc về 4 đức.
[12] Thiện-sảo: Có nghĩa là tốt lành, hay đẹp, khéo-léo, nhiệm-mầu.
[13] 22 căn: 1/ Nhãn-căn (Caksurindriya): mắt. 2/ Nhĩ-căn (Srotrendriya):
tai. 3/ Tỵ-căn (Ghrànend-riya): mũi. 4/ Thiệt-căn (Jihvendriya):
lưỡi. 5/ Thân-căn (Kày-endriya): thân-thể. 6/ Ý-căn (Manendriya).
(Trở lên thường gọi là 6 căn). 7/ Nữ-căn (Strindriya): bộ
sinh-dục của đàn bà. 8/ Nam-căn (Purusendriya): bộ sinh-dục
của đàn ông. 9/ Mệnh-căn (Jivitendriya): thọ-mệnh của chúng-sinh.
10/ Khổ-căn (Duhkhendriya): đau khổ. 11/ Lạc-căn (Suk-hendriya):
vui sướng. 12/ Ưu-căn (Daumanasyendriya): lo-lắng. 13/ Hỷ-căn
(Saumanasyendriya): vui mừng. 14/ Xả-căn (Upekendriya): không vui
không buồn. (Trở lên 5 căn thuộc về sự hưởng-thụ, thường
gọi là 5 thụ). 15/ Tín-căn (Sraddhendriya): tin thực. 16/ Tinh-tiến-căn
(Viryen-driya): gắng tiến. 17/ Niệm-căn (Smrrtindriya): nhớ nghĩ.
18/ Định-căn (Samàdhindriya): an-định. 19/ Tuệ-căn (Pra-jnedriya):
hiểu biết. (Trở lên là ngũ-căn). 20/ Vị-tri-đương-tri-căn
(Anàjnàtamàsyàmindriya): người tu 9 căn: ý, lạc, hỷ, xả,
tín, tiến, niệm, định, tuệ trong Kiến-đạo, muốn biết
lý Tứ-đế chưa từng biết, mà phát-khởi ra hành-động.
21/ Dĩ-tri-căn (Àjnendriya): người tu 9 căn kia trong Tu-đạo
tuy đã biết rõ lý Tứ-đế rồi nhưng, lại vì dứt các phiền-não
khác, nên đối với cảnh Tứ-đế thường thường phải hiểu
biết. 22/ Cụ-tri-căn (Àjnàtàvindriya): người tu 9 căn kia ở
trong vô-học-đạo đã biết trong sự biết rõ lý Tứ-đế,
tức là đã có đầy-đủ về sự biết ấy. (Trở lên là
3 căn vô-lậu-căn).
[14] Tùy-phiền-não: Những phiền-não tùy thuộc vào căn-bản phiền-não.
Căn-bản phiền-não có 6 là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến,
(ác-kiến có 5: thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ,
giới-cấm-thủ). Tùy phiền-não có 20: 10 tiểu-tùy: phẫn,
hận, phú, não, tật, khan, cuống, xiểm, hại, kiêu; 2 trung
tùy: vô tàm, vô quý và 8 đại-tùy: điệu-cử, hôn-trầm,
bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất-niệm, tán-loạn, bất-chính-tri.
[15] Sắc-pháp: Chỉ cho những pháp (sự-vật) thuộc ảnh-tướng,
có đối-đãi, có hình-chất chướng-ngại. Duy-thức-học cho:
nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc và
một phần pháp-trần thuộc về sắc-pháp.
[16] Chính-tính: Cũng gọi là Thánh-tính. Chủng-tử của vô-lậu-trí
là “Thánh-tính”; xa lìa phiền-não là “Chính-tính”.
[17] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử…đầy-đủ
8 pháp”, đến chỗ “chính-đẳng Bồ-đề”, đức Phật
thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã có 8 pháp Tam-muội thanh-tịnh,
8 thứ trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh, 8
thứ thanh-tịnh nơi hiện thân và 8 thứ đa-văn thanh-tịnh.
Được những 8 đức ấy sẽ chóng chứng vô-thượng-giác.
[18] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chỗ “chính-giác”, đức
Phật nói sau này ai thực-hành hạnh Lan-nhã sẽ được nhiều
lợi-ích. Và đương thời, do nghe pháp, chúng-nhân cũng hưởng
được nhiều lợi-ích.
Đến
đây hết quyển thứ 7.