Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Pháp Sư

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10771)
10. Phẩm Pháp Sư

Phẩm Pháp Sư Thứ Mười


Pháp sưhai nghĩa:

1. Vị nào tin hiểu, đọc tụng, thọ trì, thơ tả và vì người giải thuyết Diệu pháp, gọi là Pháp sư.

2. Pháp Pháp sư, đó là “chân lý tối hậu” mà chư Phật, Bồ Tát và tất cả chúng sinh đều kính ngưỡng phụng trì.

Chính “chân lý tối hậu” ấy mới vượt ra khỏi sự tương phân đối đãi, vượt ra khỏi năng, sở lập ngôn. Do vậy kinh này thiết lập với ngụ ý. Đức Thế Tôn thọ ký cho kẻ hậu lai, nếu ai tin hiểu phụng thờ Phật pháp, phụng thờ kinh Pháp Hoa, phụng thờ “chân lý tối hậu”.

“Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nhân nói với Dượng Vương Bồ Tát để bảo đảm tám muôn đại sĩ rằng: Dược Vương! Trong đại chúng đây có vô lượng hàng chư Thiên, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân cùng Phi nhân, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà dị, hạng cầu Thanh văn, cầu Bích Chi Phật, cầu Phật đạo. Các loại như thế đều ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một bài kệ, một câu, nhẫn đến một niệm tùy hỷ, Ta đều trao ký cho sẽ đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Kinh Pháp Hoachân lý tối thượng, lời lẽ trong ấy chứa đựng những bí yếu thâm mật của chân lý, nên rất là khó tin khó hiểu. Lúc Phật hiện tiền hay sau khi Phật diệt độ ai mà nghe được kinh Pháp Hoa mà tin hiểu thọ trì, thì phải biết người đó không phải hạng căn trí hạ liệt, phải rõ rằng người đó đã xa lìa vọng tưởng, trí tuệ rõ thông, nên do vậy mà Đức Thế Tôn thọ ký cho.

Chỉ cần một niệm tùy hỷ cũng đủ để tiến lên bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì tín là đã tin mình có hạt giống vô lậu giải thoát, làm sao không đạt thành được, nên kinh lại viện dẫn:

“Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa này nhẫn đến một bài kệ, một câu, một niệm tùy hỷ đó, ta cũng trao ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho. Nếu có người đọc tụng, thọ trì, giải nói, biên chép kinh này nhẫn đến chắp tay cung kính. Dược Vương nên biết ! Các người trên đó đã từng cúng dường mười muôn nước Phật, ở chỗ các Đức Phật thành tựu đại nguyên vì thương xót chúng sinh mà sinh vào nhân gian”.

Bởi vì kinh Pháp Hoaảnh tượng tượng trưng cho pháp tánh. Cho nên ai đã thực hành như thế chính người đó là Pháp sư. Chính người đó đã vì lòng bi mẫn đối với chúng sinhhiện thân nơi nhân gian để tùy thuận dìu dắt chúng sinh vậy.

“Dược Vương! Nếu có người hỏi chúng sinh nào ở đời vị lai sẽ thành Phật ? Nên chỉ các người ở trên đó ở đời vị lai ắt đặng làm Phật vậy. Phải biết người đó là Đại Bồ Tát thành xong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương xót chúng sinhnguyện sinh trong cõi đời để rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

“Lại nữa! Nếu người thiện nam, thiện nữ nào sau khi Ta diệt độ có thể rộng vì một người nói kinh Pháp Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết người đó là sứ giả của Như Lai”.

Bởi vì kinh Diệu Pháp Liên Hoađại bi phương tiện bí ẩn thâm diệu của chư Như Lai. Duy có Như Lai mới năng thuyết nổi, nên kẻ nào năng thuyết được một kệ, một câu đều được xem Như Lai thuyết, vì đồng đại bi nguyện lực vậy.

“Dược Vương! Nếu có người ác đem tâm không lành ở trong một kiếp hiện ở trước Phật thường chê mắng Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một lời dữ chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội đây rất nặng”.

Vì sao thế? Vì chửi mắng Phật thì tội cũng nặng, nhưng còn có thể sám hối được. Sự chửi mắng ấy không ảnh hưởng gì đến “bản lại diện mục” của tự thân mình. Hơn nữa đấng giác ngộ, cũng không có gì phải dấy động và cũng chẳng có gì làm thương tổn đến Ngài được. Còn chửi mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa. Đó chính là chúng ta đã tự xa rời tánh giác, lại làm thối thất tâm Bồ đề của kẻ khác, không tin vào “thể tánh nhất như” vốn ở nơi mình thì làm sao thoát khỏi vòng nhiễm chấp sa đọa luân hồi được.

Chê bai mắng chửi kẻ đọc tung kinh này là chính ta đã tự hủy hoại hạt giống Phật ở nơi ta, và nơi người khác. Do vậy mà Đức Thế Tôn dùng dụ trên để chúng sinh khởi bị thối thất bồ đề tâm.

Vì chửi mắng chê bai như thế là chính chúng ta không tin vào cái “chây lý tối thượng” ở nơi ta. Mà kinh Pháp Hoa là chỗ chứa đựng tất cả những bí yếu của chân lý, là pháp vi diệu, để từ đó ta tự cứu ta ra khỏi vòng nhiễm chấp luân hồi.

Sự chửi mắng chê bai như vậy sẽ làm tổn thương đến niềm tin vào khả năng thành Phật của chính mình. Đó là chính ta tự biến thành mũi tên lao nhanh vào nẻo áo.

“Dược Vương! Có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của chư Phật mà tự trang nghiêm nơi mình”.

“Dược Vương! Nay bảo người, các kinh của ta nói, với trong kinh này, Pháp Hoa tốt thứ nhất, vì kinh này là vua trong các kinh”.

Bởi lẽ các kinh khác như những dòng sông, suối, rạch, tất cả phải tuôn về biển cả. Pháp Hoa nơi đó chứa đựng “Lý đạo Nhất thừa”.

Do vậy nên kinh này thật khó tin, khó hiểu, nên Đức Thế Tôn đã bảo:

“Dược Vương! Kinh này là tạng bí yếu của các Đức Phật, chẳng nên chia bủa vọng trao cho người”.

Đây là món thuốc vi diệu, nếu không phải bậc đại y vương thông đạt diệu dụng các phương dược thì chẳng thể nào dám dùng đến vậy.

Nếu chính là bậc đại y vương sử dụng thì không còn gì bằng. Do vậy:

“Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm thân, lại được các Đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho”.

“Người đó có đại trí lực, chí nguyện lực, và các thiện căn lực, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Đức Như Lai lấy xoa đầu”.

Nếu chúng ta tin rằng, chúng ta sẵn có “Tri kiến Như Lai”, chúng ta sẵn có “Phật pháp thân” thì chính niềm tin đã thể hiện rõ nét về sự dùng “đức trang nghiêm của chư Phật tự trang nghiêm cho mình”. Nên nói là được Như Lai lấy y trùm thân, hay được Như Lai lấy tay xoa đầu vậy.

“Dược Vương! Nơi nơi, chỗ chỗ, hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc chép, hoặc chỗ có quyển kinh này đều nên dựng tháp bẳng bảy thứ báu cho tột cao rộng đẹp đẽ, chẳng cần để xá lợi. Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân của Đức Như Lai rồi”.

kinh Pháp Hoa chứa đựng tròn đủ chân lý. Kinh này từ kim khẩu Phật tuyên dương, đây là diệu pháp, chỉ rõ tất cả pháp, không một pháp nào không phải là Phật pháp. Không một chúng sinh nào không có Phật tánh. Không một chúng sinh nào không đạt thành tri kiến Như Lai. Do vậy, chỗ nào có kinh này, chính nơi đó còn quý trọng hơn là có xá lợi Phật.

“Nếu có người nào thấy được pháp này mà lễ lạy cúng dường phải biết người đó đã gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

“Dược Vương! Nếu có chúng sinh nào cầu Phật đạo hoặc thấy, hoặc nghe kinh Pháp Hoa này, nghe xong tin hiểu thọ trí, nên biết người đó đặng gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Ví như người cần nước trong lúc khát ngặt, gắng công đào giếng, từ đất khô đào cho đến khi thấy đất ướt, đất bùn, biết chắc rằng nước đã đi dần đến chỗ lấy được.

Cũng như vậy, nếu ai chưa nghe, chưa hiểu, chưa có thể tu tập Pháp Hoa này, phải biết người đó cách đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác còn xa. Nếu được nghe hiểu suy gẫm tu tập kinh này thời biết chắc gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của tất cả Bồ Tát đều thuộc kinh này.

Do vậy, đủ thấy rằng, kinh này là của phương tiện bậc nhất hiển bày chân thật tướng hiển bày tri kiến Như Lai, thông nhiếp các căn cơ, chi thẳng vào tâm Phật.

“Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nghe kinh Pháp Hoa này mà kinh nghi sợ sệt thì phải biết Bồ Tát đó mới phát âm. Nếu hàng Thanh văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là hạng tăng thương mạn”.

Vì nếu nghe rằng: “Chính tự thân của Bồ Tát cũng đạt thành tri kiến Như Lai” mà kinh nghi sợ sệt thì rõ biết vị đó mới bắt đầu bước vào lý đạo.

Còn hàng Thanh văn nào cho là đã chứng, thành đạo quả A la hán, được ít cho là đủ mà không hiểu được rằng mình có thể đạt thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại an trụ nơi quả vị A la hán, đó chính là kẻ tăng thượng mạn vậy.

“Dược Vương! Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào, sau khi Như Lai diệt độ muốn vì bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa này, thời phải làm cách nào? Người thiện nam, thiện nữ đó, phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng rộng nói kinh này. Nhà Như Lai chính là tâm đại từ đại bi với tất cả chúng sinh. Aùo Như Lai chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như Lai chính là nhất thiết pháp không”.

Muốn nói kinh này phải đủ ba điều kiện:

- Phát tâm đại từ đại bi.

- Có lòng nhu hòa nhẫn nhục.

- Thực chứng được nhất thiết pháp không hay tri kiến Như Lai.

Không thể dùng thế trí biện thông mà nói được. Vì thế trí biện thông là cái chướng ngại to lớn không thể nào thâm nhập giáo nghĩa Đại thừa. Thế trí biện thông có được là do tâm sinh diệt khởi sinh, nằm trong vòng nhiễm pháp.

Do vậy, người nó kinh Pháp Hoa, đó là Pháp sư. Bậc Pháp sư này là ảnh tượng, là phương tiện để chỉ về Pháp pháp sư. Chỉ về “chân tánh nhất như” làm cho chúng sinh viên thành đạo quả.

Cuối phẩm kinh đã viện dẫn: “Nếu ai gần Pháp sư mau đặng đạo Bồ Tát, thuận theo thầy đó học, đặng thấy hằng sa Phật”.

Thầy đó chính “Pháp pháp sư” vậy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10392)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12352)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11656)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12057)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13016)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11451)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17450)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53072)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35496)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10682)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19247)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12411)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26054)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16097)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13733)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16854)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17596)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13138)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12540)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11623)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20492)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18999)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19586)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18668)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12328)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15038)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15043)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11406)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20218)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15072)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13004)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22894)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11667)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13175)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16892)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18353)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18432)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant