Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phạm Võng

29 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15665)
Kinh Phạm Võng


CHÚ GIẢI KINH PHẠM VÕNG
BRAHMAJĀLA SUTTA
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh: THE DISCOURSE ON THE ALL EMBRACING NET OF VIEWS by Bhikkhu BODHI
Dịch Giả: Tỳ-kheo GIÁC LỘC - Pháp Bảo Tự - PL. 2543 - DL. 2000


KINH PHẠM VÕNG

CÂU CHUYỆN HAI DU SĨ
PARIBBĀJAKAKATHĀ

1. Tôi đã nghe như vầy. Một dịp nọ Thế Tôn khởi hành từ Vương Xá đến Nālanda cùng với đại chúng tỳ-kheo, khoảng năm trăm vị. Đồng thời du sĩ Suppiya cũng du hành trên con đường đó cùng với người đệ tử, thanh niênBrahmadatta. Trên đường đi, du sĩ Suppiya dùng đủ lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nhưng người đệ tử, thanh niên Brahmadatta, dùng đủ lý lẽ để ca tụng Phật, Pháp, Tăng. Như vậy hai thầy trò, theo sau Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau.

2. Bấy giờ Thế Tôn cùng với chúng tỳ-kheo vào trú xá hoàng gia ở vườn Ambalatthika để nghỉ qua đêm. Du sĩSuppiya cùng với thanh niên Brahmadatta cũng vào trú xá hoàng gia đó để nghỉ qua đêm. Tại đây, du sĩ Suppiyacũng dùng nhiều lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng, trong khi người đệ tử dùng nhiều lý lẽ để ca tụng Tam Bảo. Hai thầy trò ngụ gần Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau.

3. Khi bình minh lóng dạng, một số tỳ-kheo, sau khi thức dậy đã tụ họp trong nhà họp (ngôi nhà hình tròn, nóc nhọn). Câu chuyện sau đây diễn ra trong nhóm tỳ-kheo đó: "Chư hiền giả, thật kỳ diệu, thật hy hữu, Thế Tôn bậc Toàn tri, Toàn kiến, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Ngài đã thâm nhập hết thảy tâm hướng sai biệt của chúng sanh. Du sĩ Suppiya dùng nhiều lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng trong khi người đệ tử, thanh niên Brahmadattadùng nhiều lý lẽ để ca tụng Tam Bảo. Hai thầy trò theo sau Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau."

4. Khi ấy Thế Tôn biết được cuộc thảo luận của các tỳ-kheo kia. Ngài bước vào nhà họp, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi: "Chư tỳ-kheo, hiện giờ các ngươi đang bàn chuyện gì? Đề tài của câu chuyên liên quan đến vần đề nào?"

Các tỳ-kheo đáp: Bạch Thế Tôn, khi bình minh ló dạng chúng con tựu trong nhà họp. Câu chuyện sau đây khởi lên giữa chúng con: "Chư hiền giả, thật kỳ diệu, thật hy hữu, Thế Tôn bậc Toàn tri, Toàn kiến, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Ngài đã thâm nhập hết thảy tâm hướng sai biệt của chúng sanh. Du sĩ Suppiya dùng nhiều lý lẽ để hủy báng Phật, Pháp, Tăng trong khi người đệ tử, thanh niên Brahmadatta dùng nhiều lý lẽ để ca tụng Tam Bảo. Hai thầy trò theo sau Thế Tôn và chúng tỳ-kheo, đã nói những lời hoàn toàn mâu thuẫn nhau." Bạch Thế Tôn, đây là câu chuyện chúng con đang tàn thì Thế Tôn đến.

5. Chư tỳ-kheo, nếu những ai hủy báng Ta, hủy báng Pháp hoặc hủy báng Tăng, các ngươi không nên tỏ ra bực tức, bất mãn hoặc phẫn nộ đối với họ. Vì trong tình thế đó các ngươi chỉ tạo ra một chướng ngại cho chính mình. Nếu các ngươi giận dữ hoặc bất bình khi những ai hủy báng chúng ta, các ngươi có thể nhận thức những lời của họ là đúng hay là sai không?

"Bạch Thế Tôn, chắc chắn không?"-Chư tỳ-kheo, những ai hủy báng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi nên giải thích điều nào là sai lầm và chỉ ra chỗ sai đó, rằng: "Vì sao đây là sai, không xác thực, không có điều nào như thế về phía chúng tôi, điều này không bao giờ có nơi chúng tôi."

6. Chư tỳ-kheo, nếu những ai ca tụng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi không nên tỏ ra hân hoan, hài lòngthỏa thích. Vì trong tình thế đó, các ngươi chỉ tạo ra một chướng ngại cho chính mình. Nếu những ai ca tụng Ta, Pháp hoặc Tăng, các ngươi nên thừa nhận điều nào là thật, rằng "Vì sao đây là thật, xác đáng, có điều như thế về phía chúng tôi, điều này đương nhiên có nơi chúng tôi."

7. Chư tỳ-kheo, chỉ liên quan đến những vấn đề nhỏ nhặt, tầm thường, không ngoài những tiểu tiết nhỏ về giới luật thuần túy mà một phàm phu đề cập đến khi ca tụng Như Lai. Những tiểu tiết về giới luật thuần túy là gì mà kẻ phàm phu đề cập đến?

8-27 (Giải thích về Giới ...)

NHỮNG SUY ĐOÁN VẾ QUÁ KHỨ
(PUBBANTAKAPPIKA)

28. Chư tỳ-kheo, có các pháp khác, sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh, cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý, chỉ người có trí mới có thể hiểu biếtNhư Lai, sau khi tự mình chứng ngộ với tuệ toàn tri đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh như thực của Như Lai sẽ bàn đến. Các pháp này là gì?

29. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, nắm lấy những quan điểm về quá khứ và ở trên mười tám lập trường khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ. Và do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này dựng lên các suy đoán của họ?

CHỦ THUYẾT THƯỜNG KIẾN
(SASSATAVĀDA)

30. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, và đứng trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giớithường hằng. Và do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ.

31. Chư tỳ-kheo, trong trường hợp thứ nhất có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời hoặc một trăm ngàn đời, nhiều trăm đời, nhiều ngàn đời, nhiều trăm ngàn đời. Vị ấy nhớ: "Lúc đó tôi có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng như thế, thức ăn như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi từ bỏ cõi đó, tôi sanh ở cõi khác. Tại đấy, tôi cũng có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng như thế, thức ăn như thế, kinh nghiệm hạnh phúcđau khổ như thế, tuổi thọ như thế. Từ cõi đó, tôi tái sanh ở đây. Như vậy, vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan (như tên, tuổi, gia tộc).

Vị ấy nói như vầy: Ngã và thế giớithường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ và mặc dù chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh, tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật thường trụ. Vì sao? Bởi vì do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó tôi nhớ lại nhiều đời sống quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan. Vì lẽ đó tôi biết: ngã và thế giớithường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh, tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật thường trụ.

32. Trong trường hợp thứ hai, do cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?

Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ: một thành và hoại kiếp, hai, ba, bốn, năm, hoặc mười thành và hoại kiếp. Vị ấy nhớ lại: "Lúc đó tôi có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, hình dáng như thế, thức ăn như thế, kinh nghiệm hạnh phúcđau khổ như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi bỏ cõi đó, tôi tái sanhnơi khác. Tại đấy, tôi cũng có tên như thế, thuộc về một gia tộc như thế, kinh nghiệm vui và khổ như thế, tuội thọ như thế. Diệt từ cõi đó, tôi tái sanh ở đây. Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan.

Vị ấy nói như vầy: Ngã và thế giớithường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ. Và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật thường trụ. Vì sao? (Phần còn lại giống đoạn 31, ngoại trừ khoảng thời gian).

33. Trong trường hợp thứ ba, do cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?

Chư tỳ-kheo, ở đây một số sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và do đó vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ: mười thành và hoại kiếp, hai mươi, ba mươi hoặc bốn mươi thành và hoại kiếp…. (như trên). Như vậy vị ấy nhớ lại nhiều đời sống quá khứ cùng với các đặc điểm và các chi tiết liên quan.

Vị ấy nói như vầy: "Ngã và thế giớithường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ. Và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật thường trụ. Vì sao? (Như đoạn 31, ngoại trừ khoảng thời gian.)

34. Trong trường hợp thứ tư, do cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng?

Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm như vầy, được rút ra do suy luận, được tìm ra từ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy: "Ngã và thế giớithường hằng, bất sanh, kiên cố như đảnh núi, đứng vững như thạch trụ. Và mặc dù những chúng sanh này luân hồi, diệt và sinh. Tuy nhiên ngã và thế giới vẫn y như vật thường trụ."

35. Chư tỳ-kheo, đứng trên bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn kia tuyên bố ngã và thế giớithường hằng. Bất cứ sa-môn và bà-la-môn nào tuyên bố ngã và thế giớithường hằng, tất cả làm như thế trên bốn lập trường này, hoặc trên một trong chúng. Không có quan điểm nào bên ngoài bốn lập trường.

36. Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này nhận lầm như vậy và nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết quả như thế ở đời sau. Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Tuy hiểu biết như thế Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát. Ngài đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh khởi và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly chúng, Như Lai đã giải thoát không có chấp thủ.

37. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh như thực của Như Lai sẽ bàn đến.

CHỦ THUYẾT THƯỜNG KIẾN PHIẾN DIỆN
(EKACCASASSTAVĀDA)

38. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến đối với vài điều, và không phải những nhà thường kiến đối với những điều khác, họ đứng trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng, Do cái gì, liên quan đến điều gì những sa môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ.

39. Chư tỳ-kheo, đến một thời, sau một thời kỳ dài thế giới này tiêu hoại. Trong khi thế giới tiêu hoại, phần lớn chúng sanh tái sanh vào cõi Quang Âm Thiên. Các Phạm thiên này sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi sống bằng ý, thân tỏa hào quang, phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc. Chư vị tiếp tục sống như vậy trong một thời gian rất lâu.

40. Chư tỳ-kheo, sau một thời kỳ dài, đến một thời khi thế giới này bắt đầu hình thành trở lại, một Phạm cung trống không xuất hiện. Lúc đó có chúng sanh, do hết tuổi thọ hoặc hết phước, từ bỏ Quang Âm Thiêntái sanh trong Phạm cung trống không. Vị này sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi sống bằng hỷ, thân tỏa hào quang, phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc và tiếp tục sống như vậy trong một thời gian rất lâu.

41. Sống một mình nơi Phạm cung quá lâu, vị Phạm thiên này sanh tâm chán nản và xao xuyến nên mong ước: "Các chúng sanh khác hãy đến nơi này!" Ngay lúc đó, do hết tuổi thọ hoặc hết phước, các chúng sanh khác từ bỏ Quang Âm Thiêntái sanh trong Phạm cung để làm bạn với vị Phạm thiên đầu tiên. Họ sống ở đấy, do tâm tạo, nuôi sống bằng hỷ, thân tỏa hào quang, phi hành qua hư không, trú trong tịnh lạc và tiếp tục sống như vậy trong một thời gian rất lâu.

42. Bấy giời chúng sanhtái sinh ở đấy trước tiên tự nghĩ: Ta là Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô Địch, Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực, Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần Định Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Những chúng sanh này do ta tạo ra. Vì sao? Bởi vì trước đó ta đã mong ước: "Các chúng sanh kia hãy đến nơi này!" Sau khi ta đã khởi tâm như thế, bây giờ các chúng sanh này đã đến.

Các chúng sanhtái sanh ở đấy sau vị ấy cũng nghĩ: Vị này là Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô Địch, Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực, Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần Định Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Chúng ta do Ngài tạo ra. Vì sao? Bởi vì chúng ta thấy rằng vị ấy sanh ở đây trước và chúng ta xuất hiện sau Ngài.

43. Chư tỳ-kheo, ở đây chúng sanhtái sanh trước có tuổi thọ dài hơn, dung sắc tuyệt diệu hơn, oai lực hùng hậu hơn các chúng sanh sinh sau.

44. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự kiện này xảy ra, một chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau đó vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và nhờ định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình, nhưng không nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Chúng ta được sáng tạo do Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, Thắng Giả, Vô Địch, Đại Thấu Thị, Đại Thần Lực, Thượng Đế, Sáng Thế, Tạo Hóa, Chí Thánh, Thần Định Mạng, Đấng Tự Tại, Cha của tất cả chúng sanh đã sanh và sẽ sanh. Ngài là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng, không bị thay đổi và sẽ y như vật thường trụ. Nhưng chúng ta do Ngài tạo ra và xuất hiện ở đời này-Chúng ta là vô thường, không bền vững, thọ mạng ngắn, bị biến hoại. Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ nhất.

45. Trong trường hợp thứ nhì, do cái gì, liên quan đến điều gì, một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến đối với vài điều và không phải nhà thường kiến đối với những điều khác, tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng?

Chư tỳ-kheo, có những chư thiên gọi là "bị sa đoạ do vui đùa". Những vị này phung phí nhiều thời gian say đắm trong hoan lạc vui đùa. Do đó họ quên ăn và từ bỏ cõi đó.

46. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự kiện này xảy ra, có chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau đó vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định và nhờ định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình, nhưng không nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Những chư thiên nào không bị sa đọa do vui đùa, không phung phí thời gian say đắm trong hoan lạc vui đùa. Do đó họ không quên ăn, và bởi vì họ không quên ăn nên không từ bỏ cõi đó. Những chư thiên đó là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng, không thay đổi và sẽ y như vật thường trụ."

47. Chư tỳ-kheo, có những chư thiên gọi là "bị sa đoạ do ý." Những chư thiên này nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng. Do đó tâm của họ bị sa đọa bởi sân hận đối với nhau, khiến cho thân và tâm của họ bị kiệt lực và họ phải từ bỏ cõi đó.

48. Chư tỳ-kheo, bấy giờ, sự kiện này xảy ra, có chúng sanh sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này, sau đó vị ấy xuất gia và do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này vị ấy nhớ lại đời sống trước đó của mình, nhưng không nhớ hơn kiếp đó. Vị ấy nói như vầy: "Những chư thiên nào không bị sa đọa do ý, không nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng. Kết quả là tâm của họ không bị sa đọa bởi sân hận đối với nhau, thân và tâm họ không bị kiệt lực và họ không từ bỏ cõi đó. Những chư thiên đó là vĩnh cửu, bền vững, thường hằng, không thay đổi và sẽ y như vật thường trụ. Nhưng chúng ta là những chư thiên bị sa đọa do ý. Chúng ta nhìn nhau với tâm ganh tỵ quá đáng, kết quả là tâm chúng ta bị sa đọa bởi sân hận đối với nhau. Do đó thân và tâm chúng ta bị kiệt lực và phải từ bỏ cõi đó. Xuất hiện ở đời này, giờ đây chúng ta là không vĩnh cửu, không bền vững, thọ mạng ngắn, chịư sự biến hoại. Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ ba.

49. Trong trường hợp thứ tư: Chư tỳ-kheo, ở đây có sa-môn hoặc bà-la-môn là những nhà suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình, được rút ra do suy luận, được tìm ra nhờ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy: "Điều mà gọi là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân" - ngã đó là không vĩnh cửu, không bền vững, không thường hằng, bị thay đổi. Nhưng điều mà gọi là "Tâm, ý hoặc thức" - ngã đó là vĩnh cữu, bền vững, thường hằng, không bị biến hoại và sẽ y như vật thường trự.

50. Chư tỳ-kheo, đứng trên bốn lập trường này, những sa-môn và bà-la-môn kia tuyên bố ngã và thế giới một phần thường hằng và một phần không thường hằng. Bất cứ sa-môn và bà-la-môn nào tuyên bố ngã và thế giớithường hằng phiến diện, tất cả làm thế trên bốn lập trường, hoặc một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

51. Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này, nhận lầm như vậy, nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết quả như thế ở đời sau. Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Nhờ hiểu biết như thế, Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát, Ngài đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh khởi và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt, và sự xả ly chúng, Như Lai đã giải thoát không có chấp thủ."

52. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ THẾ GIỚI HỮU BIÊNVÔ BIÊN
(ANTĀNANTAVĀDA)

53. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà hữu biênvô biên và ở trên bốn lập trường tuyên bố thế giớihữu biên hoặc vô biên. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

54. Chư tỳ-kheo, trong trường hợp thứ nhất, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này, vị ấy trú và nhận thức thế giớihữu biên. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới là hữu biên và hạn cuộc. Vì sao? Bởi vì tôi đã đạt đến tâm định, đến mức trú và nhận thức thế giớihữu biên. Vì lẽ đó tôi biết thế giớihữu biên và hạn cuộc."

55. Trong trường hợp thứ hai: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này, vị ấy trú và nhận thức thế giớivô biên. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới là vô biên và vô hạn." Những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giớihữu biên và hạn cuộc là nói sai. Thế giớivô biên và vô hạn. Vì sao? Bởi vì tôi đạt đến tâm định đến mức tôi trú và nhận thức thế giớivô biên. Vì lẽ đó tôi biết: Thế giớivô biên và vô hạn."

56. Trong trường hợp thứ ba: Chư tỳ-kheo, ở đây vị sa-môn hoặc bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do tâm định này, vị ấy trú và nhận thức thế giớihữu biên ở các hướng trên và dưới, nhưng vô biên về bề ngang. Vị ấy nói như vầy: "Thế giới vừa hữu biên vừa vô biên." Những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giớihữu biên và hạn cuộc, họ nói sai; những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giớivô biên và vô hạn, họ cũng nói sai. Thế giới vừa hữu biên vừa vô biên. Vì sao? Bởi vì tôi đạt đến tâm định, đến mức trú và nhận thức thế giớihữu biên ở các hướng trên và dưới nhưng vô biên về bề ngang. Vì lẽ đó tôi biết: Thế giới vừa hữu biên vừa vô biên.

57. Trong trường hợp thứ tư: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình, được rút ra do suy luận, được tìm ra nhờ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình như vầy: "Thế giới không hữu biên cũng không vô biên." Những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giớihữu biên và hạn cuộc, những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giớivô biên và vô hạn, những sa-môn và bà-la-môn mà tuyên bố thế giới vừa hữu biên vừa vô biên - tất cả chư vị này đều nói sai. Thế giới không hữu biên cũng không vô biên.

58. Chư tỳ-kheo, trên bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà hữu biênvô biên tuyên bố thế giớihữu biên hoặc vô biên. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố thế giớihữu biên hoặc vô biên, tất cả làm thế trên bốn lập trường này, hoặc trên một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

59-60. Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ NGỤY BIỆN VÔ TẬN
(AMARĀ VIKKHEPAVĀDA)

61. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà ngụy biện vô tận. Khi được hỏi về điểm này nọ, ở trên bốn lập trường họ dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thức. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này làm thế?

62. Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Vị ấy nghĩ: "Ta không hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Nếu ta tuyên bố điều gì là thiện hoặc bất thiện thì lời tuyên bố có thể sai lạc và sẽ làm cho ta phiền muộnphiền muộn đó sẽ là một chướng ngại cho ta." Do vậy, vì lo sợ và chán ghét việc nói sai, vị ấy không tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi vị ấy hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc: "Tôi không nói như vầy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng không nói theo cách khác. Tôi không nói rằng nó không là thế, tôi cũng không nói rằng không phải cái này, không phải cái kia." Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ nhất.

63. Trong trường hợp thứ hai : Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Vị ấy nghĩ: "Ta không hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Nếu ta tuyên bố điều gì là thiện hoặc bất thiện thì dục và tham hoặc sân và hận có thể phát sanh trong tâm ta. Nếu dục và tham hoặc sân và hận phát sanh trong tâm ta, điều đó sẽ là thủ do ta gây ra. Thủ như thế sẽ làm cho ta phiền muộnphiền muộn đó sẽ là một chướng ngại cho ta." Do vậy, vì lo sợ và chán ghét thủ, vị ấy không tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi được hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc: "Tôi không nói như vậy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng không nói theo cách khác. Tôi không nói rằng nó không là thế, tôi cũng không nói rằng không phải cái này, không phải cái kia."

64. Trong trường hợp thứ ba: Chư tỳ-kheo, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn không hiểu như thực pháp nào là thiện và pháp nào là bất thiện. Hiện giờ có những sa-môn và bà-la-môn thông thái, đa tài, hùng biện, đi đó đây đả phá các quan điểm của những người khác với trí tuệ của mình. Nếu ta tuyên bố điều gì là thiện hoặc bất thiện, những sa-môn, bà-la-môn này có thể thẩm vấn những quan điểm của ta, buộc ta giải thíchbác bỏ những lời của ta. Trong trường hợp đó, ta không sao trả lời được và điều đó sẽ làm cho ta bực tức và sự bực tức đó sẽ là một chướng ngại cho ta. Do vậy, vì lo sợ và chán ghét việc bị thẩm vấn, vị ấy không tuyên bố bất cứ điều gì là thiện hoặc bất thiện. Nhưng khi được hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc.

65. Trong trường hợp thứ tư : Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn do đần độnngu xuẩn, khi người ta hỏi về điểm này nọ, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc: "Nếu bạn hỏi tôi có thế giới khác hay không - nếu tôi nghĩ rằng có một thế giới khác, tôi sẽ tuyên bố rằng có. Nhưng tôi không nói như vậy, tôi cũng không nói theo cách kia, tôi cũng không nói theo cách khác. Tôi cũng không nói rằng không phải cái này, không phải cái kia."

Cũng vậy, khi được hỏi bất cứ câu hỏi nào sau đây, vị ấy dùng những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc:

A)

1. Có phải không có thế giới khác? 
3. Có phải vừa có vừa không có thế giới khác? 
4. Có phải không có cũng không phải không có thế giới khác?

B)

1. Có phải có những chúng sanh hóa sanh? 
2. Có phải không có những chúng sanh hóa sanh?
3. Có phải vừa có vừa không có những chúng sanh hóa sanh?
4. Có phải không có cũng không phải không có những chúng sanh hóa sanh?

C)

1. Có phải có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
2. Có phải không có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
3. Có phải vừa có vừa không có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?
4. Có phải không có cũng không phải không có quả dị thục của các nghiệp thiện ác?

D)

1. Có phải Như Lai tồn tại sau khi chết? 
2. Có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết? 
3. Có phải Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết?
4. Có phải Như Lai không tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết?

66. Chư tỳ-kheo, ở trên bốn cơ sở này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà ngụy biện vô tận, dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc khi được hỏi về điểm này nọ. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào mà dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc, tất cả làm như thế trên bốn lập trường này, hoặc trên một trong bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ SỰ SINH KHỞI NGẪU NHIÊN
(ADHICCASAMUPPANNAVĀDA)

67. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn hoặc bà-la-môn ở trên hai lập trường tuyên bố ngã và thế giới sinh khởi một cách ngẫu nhiên. Và do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

68. Chư tỳ-kheo, có những vị trời gọi là "Chúng sanh vô tưởng". Khi tưởng sinh khởi, các vị này từ bỏ cõi đó. Chư tỳ-kheo, bấy giờ sự kiện này xảy ra, một chúng sanh, sau khi từ bỏ cõi đó, tái sanh ở đời này. Sau đó vị ấy xuất gia, do nhờ nhiệt tâm, tinh tấn, chuyên cần và chánh tác ý nên đạt đến tâm định. Do định này, vị ấy nhớ lại lúc tưởng sinh khởi, nhưng không nhớ điều gì hơn giai đoạn đó. Vị ấy nói như vầy: "Ngã và thế giới sinh bởi ngẫu nhiên. Vì sao? Bởi vì trước đây ta không có, nhưng bây giờ ta có. Từ chỗ không có ta hiện hữu ở đời. Chư tỳ-kheo, đây là trường hợp thứ nhất.

69. Trong trường hợp thứ nhì: Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn là nhà suy luận, nhà khảo sát. Vị ấy tuyên bố quan điểm của mình được rút ra do suy luận, được tìm ra từ những khảo sát, theo tư tưởng mơ mộng của mình, như vầy: "Ngã và thế giới sinh khởi ngẫu nhiên."

70. Chư tỳ-kheo, trên hai lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn tuyên bố ngã và thế giới sinh khởi ngẫu nhiên. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố ngã và thế giới sinh khởi một cách ngẫu nhiên, tất cả làm thế trên hai lập trường này, hoặc trên một trong hai lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… Chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

71. Chư tỳ-kheo, trên mười tám lập trường này, mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, nắm lấy những quan điểm về quá khứ, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào là những nhà suy đoán quá khứ, nắm lấy những quan điểm về quá khứ, và khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ, tất cả chư vị làm thế trên mười tám lập trường này, hoặc trên một trong mười tám lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

72. Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… giải thoát không có chấp thủ.

73. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp sâu xa…. sẽ bàn đến.

NHỮNG SUY ĐOÁN VỀ TƯƠNG LAI
(APARANTAKAPPIKA)

74. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về tương lai, nắm lấy những quan điểm về tương lai, và ở trên bốn mươi bốn lập trường khẳng định các tà kiến liên quan đến tương lai. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn dựng lên các suy đoán của họ?

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ TƯỞNG BẤT TỬ
(SANNIVĀDA)

75. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn mà đề xướng lý thuyết về tưởng bất tử và ở trên mười sáu lập trường tuyên bố ngã tồn tại hữu tưởng sau khi chết. Và do cái gì, đối với cái gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

76. Họ tuyên bố: "Ngã bất biến sau khi chết, hữu tưởng:

A)

1. Có sắc.
2. Vô sắc.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không phải không có sắc.

B)

1. Hữu biên.
2. Vô biên.
3. Vừa hữu biên vừa vô biên.
4. Không hữu biên cũng không vô biên.

C)

1. Đồng nhất tưởng.
2. Sai biệt tưởng
3. Hữu hạn tưởng.
4. Vô hạn tưởng.

D)

1. Hoàn toàn lạc.
2. Hoàn toàn khổ.
3. Vừa lạc vừa khổ.
4. Không lạc cũng không khổ.

77. Chư tỳ-kheo, ở trên mười sáu lập trường này, những sam và bà-la-môn đề xướng lý thuyết về tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại hữu tưởng sau khi chết. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào đề xướng lý thuyết về tưởng bất tử, tất cả vị đó làm thế trên mười sáu lập trường này, hoặc trên một trong mười sáu lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ VÔ TƯỞNG BẤT TỬ
(ASANNĪVĀDA)

78. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết vô tưởng bất tử, ở trên tám lập trường tuyên bố ngã tồn tại vô tưởng sau khi chết. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

79. Họ tuyên bố: "Ngã bất biến sau khi chết, vô tưởng:

A)

1. Có sắc.
2. Vô sắc.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không phải không có sắc.

B)

1.Hữu biên
2. Vô biên.
3. Vừa có sắc vừa vô sắc.
4. Không có sắc cũng không vô sắc.

C)

1. Hữu biên.
2. Vô biên.
3. Vừa hữu biên vừa vô biên.
4. Không hữu biên cũng không vô biên.

83. Chư tỳ-kheo, ở trên tám lập trường này, những sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết phi tưởng phi phi tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại phi tưởng phi phi tưởng sau khi chết. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào đề xướng lý thuyết về phi tưởng phi phi tưởng bất tử, tất cả vị đó làm thế trên tám lập trường này, hoặc trên một trong tám lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

CHỦ THUYẾT ĐOẠN KIẾN
(UCCHEDAVĀDA)

84. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn là những nhà đoạn kiến, ở trên bảy lập trường tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt, tiêu hoại của một chúng sanh. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

85. Chư tỳ-kheo, ở đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn khẳng định lý thuyết về quan điểm sau đây: "Ngã có sắc, nó gồm có tứ đại và do cha mẹ sinh ra. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân thể, và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

86. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở điểm đó mà ngã hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì có một ngã khác-có thiên tánh, có sắc, thuộc dục giới, sống nhờ đoàn thực. Bạn không biết cũng không thấy, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

87. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì có một ngã khác-có thiên tánh, có sắc, do tâm tạo, đầy đủ chân tay và các giác quan, không thiếu bất cứ căn nào. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

88. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc về không vô biên xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn các sắc tưởng, do biến mất các tưởng chống đối, do không chú ý đến các tưởng sai biệt, (do quán) "Hư không là vô biên". Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số khác tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

89. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc về thức vô biên xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn không vô biên xứ, (do quán) 'Thức là vô biên'. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở trường hợp này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

90. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc về vô sở hữu xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn thức vô biên xứ, (do quán) 'Không có vật gì'. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị đoạn diệt, tiêu hoại với sự việt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở điểm này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

91. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã hoàn toàn bị diệt. Vì có một ngã khác thuộc về phi tưởng phi phi tưởng xứ, (được đạt đến) do vượt qua hoàn toàn vô sở hữu xứ, (do quán) 'Đây là tịnh lạc, đây là thâm diệu'. Bạn không biết cũng không thấy ngã đó, nhưng tôi biết nó và thấy nó. Vì ngã này bị diệt, tiêu hoại với sự diệt của thân và không tồn tại sau khi chết, ở điểm này ngã hoàn toàn bị diệt." Theo cách này một số tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

92. Chư tỳ-kheo, ở trên bảy lập trường này mà các sa-môn và bà-la-môn là những nhà đoạn kiến, tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh, tất cả vị đó làm thế trên bảy lập trường này, hoặc trên một trong bảy lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ NIẾT BÀN HIỆN TẠI
(DITTHADHAMMANIBBĀNAVĀDA)

93. Chư tỳ-kheo, có một số sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết về Niết-bàn hiện tại, ở trên năm lập trường tuyên bố về Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh. Do cái gì, liên quan đến điều gì, những sa-môn và bà-la-môn này tuyên bố các quan điểm của họ?

94. Chư tỳ-kheo, ở đây, có vị sa-môn hoặc bà-la-môn khẳng định lý thuyết hoặc quan điểm sau đây: "Khi ngã này được thụ hưởngcung cấp với năm loại dục lạc, thỏa thích trong chúng - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại." Theo cách này một số tuyên bố Niết-bàn hịên tại của một chúng sanh.

95. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao? Bởi vì các dục lạcvô thường, khổ, bị thay đổi, và qua sự thay đổi và biến hoại của chúng, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh khởi. Nhưng khi ngã, được ly thoát hoàn toàn các dục lạc, viễn ly các bất thiện pháp, nhập và trú trong sơ thiền, có tầm, tứ, hỷ, lạc sanh từ sự viễn ly các triền cái-ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Theo cách này một nhóm khác tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.

96. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao? Bởi vì thiền đó chứa tầm và tứ; do vậy nó được coi là thô. Nhưng khi nào, với sự tịnh chỉ tầm và tứ, ngã nhập và trú trong nhị thiền, nội tâm an tịnhchuyên nhất, có hỷ và lạc do định sanh - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn." Theo cách này một nhóm khác tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.

97. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao? Bởi vì thiền đó chứa hỷ và hứng khởi: do vậy nó được coi là thô. Nhưng khi nào với sự diệt hỷ, người ta trú trong xả, có niệm và tỉnh giác, thân hưởng an lạc, nhập và trú tam thiền, mà các bậc thánh thường ca tụng là: "Vị ấy trú một cách an lạc, trong xả và niệm" - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.

98. Đối với vị ấy có người nói: "Có một ngã như thế như bạn khẳng định. Tôi không phủ nhận điều ấy. Nhưng không phải ở trường hợp đó mà ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại. Vì sao? Bởi vì thiền đó chứa lạc trú thường xuyên nơi tâm; do vậy nó được coi là thô. Nhưng khi nào với sự từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất hỷ và ưu trước, người ta nhập và trú trong tứ thiền, không có lạc và khổ và chứa niệm thanh tịnh do nhờ xả - ở trường hợp này ngã đạt đến tối thượng Niết-bàn hiện tại". Theo cách này một nhóm khác tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.

99. Chư tỳ-kheo, ở trên năm lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn đề xướng lý thuyết về Niết-bàn hiện tại. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh, tất cả vị đó làm thế trên năm lập trường này, hoặc trên một trong năm lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

100. Chư tỳ-kheo, ở trên bốn mươi bốn lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về tương lai, nắm lấy các quan điểm về tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến tương lai. Bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào là những nhà suy đoán về tương lai, nắm lấy những quan điểm về tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến tương lai, tất cả vị đó làm thế trên bốn mươi bốn lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu… và chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

101. Chư tỳ-kheo, ở trên sáu mươi hai lập trường này mà những sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, tương lai, quá khứ lẫn tương lai, nắm lấy những quan điểm về quá khứ và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai.

102. Chư tỳ-kheo, bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào là những nhà suy đoán về quá khứ, tương lai, hoặc quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ những quan điểm vế quá khứ và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khức và tương lai, tất cả vị đó làm thế trên sáu mươi hai lập trường này, hoặc trên một trong sáu mươi hai lập trường. Không có quan điểm nào ở bên ngoài chúng.

103. Chư tỳ-kheo, điều này Như Lai hiểu và Ngài hiểu: "Những quan điểm này nhận lầm như vậy, nắm giữ sai lạc như vậy, dẫn đến một sanh thú như thế, đến một kết quả như thế ở đời sau." Ngài cũng hiểu pháp nào vượt qua điều này. Nhờ hiểu biết như thế Ngài không nắm giữ sai lạc và bởi vì tà chấp đã được giải thoát, Ngài đã tự chứng ngộ trạng thái an tịnh toàn hảo. Sau khi hiểu như thực sự sinh khởi và sự diệt tận của các cảm thọ, vị ngọt và sự xuất ly chúng. Như Lai đã giải thoát không có chấp thủ.

104. Chư tỳ-kheo, đây là các pháp sâu xa, khó thấy, khó hiểu, an tịnh và cao thượng, vượt qua phạm vi luận lý, chỉ người có trí mới có thể hiểu biết, mà Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với tuệ toàn tri, đã tuyên thuyết cho những kẻ khác; chính vì đối với các pháp này mà những ai ca tụng một cách đúng đắn các đức hạnh của Như Lai sẽ bàn đến.

SỰ LUÂN CHUYỂN CỦA CÁC DUYÊN VÀ SỰ GIẢI THOÁT

105. Chư tỳ-kheo, nơi đây khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới và thường hằng-đó chỉ là cảm thọ của những người không biết và không thấy; đó chỉ là sự giao động và khuynh đảo của những người bị chìm đắm trong ái.

106. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng-đó chỉ là sự giao động và khuynh đảo của những người bị chìm đắm trong ái.

107. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố thế giớihữu biên hoặc vô biên.

108. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường dùng đến những lời lẫn tránh và mập mờ không có chỗ kết thúc.

109. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên hai lập trường tuyên bố ngã và thế giới sinh khởi một cách ngẫu nhiên.

110. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên mười tám lập trường nắm giữ những quan điểm về quá khứ, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ.

111. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên mười sáu lập trường đề xướng lý thuyết hữu tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại có tưởng sau khi chết.

112. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên tám lập trường đề xướng lý thuyết về vô tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại vô tưởng sau khi chết.

113. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên tám lập trường đề xướng lý thuyết phi tưởng phi phi tưởng bất tử, tuyên bố ngã tồn tại phi tưởng phi phi tưởng sau khi chết.

114. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bảy lập trường tuyên bố sự đoạn diệt, hủy diệt và tiêu hoại của một chúng sanh.

115. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên năm lập trường đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại, tuyên bố tối thượng Niết-bàn hiện tại của một chúng sanh.

116. Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trênbốn mươi lập trường nắm giữ những quan điểm về tương lai khẳng định các tà kiến liên quan đến tương lai.

117. Khi những sa môn và bà-la-môn kia ở trên sáu mươi hai lập trường nắm giữ những quan điểm về quá khứ và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai-đó cũng chỉ là cảm thọ của những người không biết và không thấy; đó cũng chỉ là sự giao động và khuynh đảo của những người bị chìm đắm trong ái.

DO DUYÊN XÚC 
(PHASSAPACCAYAVĀRA)

118. (131) Chư tỳ-kheo, khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng-đó là do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.

119. (132) Khi những sa-môn và bà-la-môn kia ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giới là một phần thường hằng và một phần không thường hằng-đó cũng do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.

120. (133)-129(142). Khi những sa-môn và bà-la-môn kia là những nhà hữu biênvô biên, tuyên bố các quan điểm của họ; khi những nhà ngụy biện, khi những nhà sinh khởi ngẫu nhiên; khi các nhà suy đoán về quá khứ và nắm giữ các quan điểm vế quá khứ, khẳng định trên mười tám lập trường về các tà kiến liên quan đến quá khứ; khi những người mà đề xướng lý thuyết hữu tưởng bất tử, vô tưởng bất tử, hoặc phi tưởng phi phi tưởng bất tử thuyên bố những quan điểm của học, khi những nhà đoạn kiến tuyên bố các quan điểm của họ; khi những người đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại, tuyên bố các quan điểm của họ; khi những người mà là những nhà suy đoán về tương lai, nắm giữ các quan điểm về tương lai, khẳng định trên bốn mươi bốn lập trường về các tà kiến liên quan đến tương lai-đó cũng là do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.

130 (143). Khi những sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ, suy đoán về tương lai, suy đoán về quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ các quan điểm về quá khứ và tương lai, khẳng định trên sáu mươi hai lập trường các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai-đó cũng do duyên xúc. Sự kiện rằng, họ có thể kinh nghiệm cảm thọ đó mà không có xúc - trường hợp như thế không thể xảy ra.

SỰ GIẢI THÍCH VỀ LUÂN CHUYỂN

144. Chư tỳ-kheo, ở đây những sa-môn và bà-la-môn là những nhà thường kiến, ở trên bốn lập trường tuyên bố ngã và thế giớithường hằng; những nhà thường kiến phiến diện; những nhà hữu biênvô biên; những nhà ngụy biện vô tận; những nhà sinh khởi ngẫu nhiên; những nhà suy đoán về quá khứ; những người đề xướng lý thuyết về hữu tưởng bất tử; về vô tưởng bất tử; về phi tưởng phi phi tưởng bất tử, những nhà đoạn kiến, những người đề xướng lý thuyết Niết-bàn hiện tại; những nhà suy đoán về tương lai, những nhà suy đoán về quá khứ, những nhà suy đoán về quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ các quan điểm về quá khứ và tương lai, ở trên sáu mươi hai lập trường khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai - tất cả những sa-môn và bà-la-môn kia kinh nghiệm những cảm thọ này chỉ có các xúc chạm thường xuyên qua sáu xúc xứ. Với thọ làm duyên ái sinh; với ái làm duyên, thủ sinh, với thủ làm duyên, hữu sinh, với hữu làm duyên, sanh sinh, với sanh làm duyên, già và chết, sầu, bi, khổ, ưu và não sinh."

SỰ CHẤM DỨT LUÂN CHUYỂN 
(VIVATTAKATHĀDI)

145. Chư tỳ-kheo, khi một tỳ-kheo hiểu như thực sự sinh khởi và sự diệt tận của sáu xúc xứ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự thoát ly chúng, lúc đó vị ấy hiểu những gì vượt xa tất cả những quan điểm này.

146. Chư tỳ-kheo, bất cứ sa-môn hoặc bà-la-môn nào, là những nhà suy đoán về quá khứ, những nhà suy đoán về tương lai, những nhà suy đoán về quá khứ lẫn tương lai, nắm giữ những quan điểm về quá khứ và tương lai, khẳng định các tà kiến liên quan đến quá khứ và tương lai - tất cả bị kẹt trong lưới của kinh này với sáu mươi hai loại. Bất cứ khi nào họ trồi lên, họ trồi lên và bị tóm trong lưới này, bị kẹt và nằm gọn ngay trong lưới này.

Chư tỳ-kheo, y như người đánh cá lão luyện hoặc đệ tử của người đánh cá, sau khi tung ra một cái lưới có mắt lưới thật khít qua một hồ nước nhỏ, có thể nghĩ: "Bất cứ sinh vật lớn nào mà có trong hồ này, bất cả bị kẹt trong lưới này, bị kẹt và nằm gọn ngay trong lưới này."-Cũng vậy, tất cả những sa-môn và bà-la-môn kia bị mắc kẹt trong lưới này với sáu mươi hai loại của nó. Bất cứ khi nào họ trồi lên, họ trồi lên và bị tóm trong lưới này, bị mắc kẹt và nằm gọn ngay trong lưới này.

147. Chư tỳ-kheo, thân của Như Lai tồn tại, bị cắt đứt khỏi những ràng buộc của hữu ái. Chừng nào thân của Ngài còn, các trời và người còn thấy Ngài. Nhưng với sự diệt của thân và sự chấm dứt mạng căn, các trời và người sẽ không thấy Ngài nữa.

Chư tỳ-kheo, y như khi cuống của một chùm xoài bị cắt, tất cả trái treo trên cuống cũng rơi theo nó, cũng vậy, thân của Như Lai tồn tại bị cắt đứt khỏi những ràng buộc của hữu ái. Chừng nào thân Ngài còn, các trời, người còn thấy Ngài. Nhưng với sự diệt của thân và sự chấm dứt mạng căn, các trời và người sẽ không thấy Ngài nữa.

148. Khi Thế Tôn đã thuyết xong, đức Ānanda thưa: "Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, tựa của thiên khái luận này là gi?"

"Này Ānanda, người có thể nhớ thiên khái luận này có tựa là Lưới Lợi Ích, Lưới Chân Lý, Lưới Cao Thượng, Lưới Quan Điểm. Ngươi cũng có thểnhoó nó là 'Khúc Vô Thượng Khải Hoàn".

149. Thế Tôn đã dạy như vậy. Các tỳ-kheo vô cùng thỏa thíchhoan hỷ về lời dạy của Thế Tôn. Khi Thế Tôn vừa giảng xong thiên khái luận này thi mười ngàn thế giới chuyển động.

DỨT KINH VĂN



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10392)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12352)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11656)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12057)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13016)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11451)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17450)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53074)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35496)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21408)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10682)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19247)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12411)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26054)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16097)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13733)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16854)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17596)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13138)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12540)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11623)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20492)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18999)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19587)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18668)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12328)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15038)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15043)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11406)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20218)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15072)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13004)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22894)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11667)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13175)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16892)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18353)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18432)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant