Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Hiển minh tông thú

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14807)
III. Hiển minh tông thú


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

III. HIỂN MINH TÔNG THÚ (minh định tông thú của kinh này)

 Tông nghĩa là sùng phụng, là điều được kinh đề cao. Tông chính là đường lối trọng yếu để tu hành. Mục đích của tu hành là khế hội bản thể; do đó, Tông chính là mấu chốt để thực hiện mục đích ấy. Thú là chỗ Tông quy kết về.

 Trong phần trước đã biện minh về Thể, ấy là Tánh đức. Phần này luận về Tông Thú, đấy chính là Tu đức. Từ tánh khởi tu, toàn tu tại tánh. Tánh đức là điều ai cũng sẵn có, nhưng Tu đức là điều mỗi cá nhân phải nỗ lực tu tập để thành tựu.

 Kinh này lấy “Tín, Nguyện, Trì Danh” làm Tông; lấy việc “vãng sanh, viên chứng ba thứ Bất Thoái” làm Thú.

 Ba thứ Tín, Nguyện, Trì Danh (hay còn gọi là Tín, Nguyện, Hạnh) thường được gọi chung là Tư Lương. Ði xa cần phải dắt theo tiền bạc hòng chi dụng, đó gọi là Tư. Mang theo thức ăn, nước nôi, đó là Lương. Như vậy, Tư Lương chính là những phương tiện, vật dụng cần thiết cho bất cứ cuộc hành trình nào.

 Trong ba thứ Tư Lương nói trên, Tín là mấu chốt. Nếu niệm Phật tinh tấn nhưng vẫn chưa thể tin chắc mình sẽ được vãng sanh, chưa tin chắc vào bi nguyện của Phật Di Ðà lẫn cõi Tịnh Ðộ thì chẳng thể phát nguyện chân thành, thiết tha. Nếu tín, nguyện không có thì chẳng thể duy trì hạnh Trì Danh lâu dài được! Nếu thật sự tin sâu, nguyện thiết thì tự nhiên sanh khởi diệu dụng Trì Danh.  

1. Tín:

Tín là đoạn trừ hết thảy ngờ vực, nhưng lòng tin ấy do sự hiểu biết phát xuất từ trí, chứ không phải là tin tưởng một cách mù quáng.

 Tín gồm có bảy điều sau:

 

a. Tin vào lời Phật dạy:

Tin rằng pháp môn Niệm Phật đây chẳng phải do tà ma, ngoại đạo, quỷ thần vọng thuyết, mà do chính kim khẩu của đức Thích Tôn đích thân giảng ra. Ðức Phật là đại đạo sư của tam giới, là cha lành của bốn loài, là bậc quyết định không dối trá. Cổ đức đã nói: “Phật ngôn bất tín, thùy ngôn khả tín?” (chẳng tin lời Phật thì còn tin lời ai được nữa?) Do vậy, phải tin vào lời Phật, đừng nhận lầm kinh này chỉ là do Ðức Phật giả lập phương tiện, Cực Lạccảnh giới tưởng tượng, để đến nỗi tạo tội báng pháp như “tăng” Nhật Liên (khai tổ Tân Pháp Hoa Tông của Nhật Bản) dám phỉ báng kinh A Di Ðà này là ngụy tạo.

 Hơn nữa, pháp môn Niệm Phật được đề cập đến rất nhiều trong các kinh khác. Các pháp môn Tiểu Thừa, Quyền giáo đến thời Pháp Hoa - Niết Bàn đều bị bài xích, nhưng chưa hề thấy trong kinh điển nào Ðức Phật lại chỉ trích pháp môn này là quyền tạm, là phương tiện cả!

Ngoài ra, khi Ðức Phật thuyết kinh này, sáu phương chư Phật đều dị khẩu đồng âm xưng dương, tán thán. Ngay cả bản kinh được xưng tụng là “chúng kinh chi vương” (vua của mọi kinh) là kinh Pháp Hoa cũng chép: “Người tụng kinh này (kinh Pháp Hoa) khi mạng chung sẽ sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà”. Vua trong Tam Tạng, được thế gian xưng tụng là mẹ của các kinh, tức là kinh Hoa Nghiêm, ngay trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng quy hướng vãng sanh Tịnh Ðộ. Kinh báu của nhà Thiền là kinh Lăng Nghiêm, trong chương Thế Chí Niệm Phật Viên Thông cũng dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật, tương lai nhất định thấy Phật”.

Kinh Ban Châu Tam Muội chép: “Bồ Tát nhập tam muội này liền thấy A Di Ðà Phật”. Kinh Mục Liên Sở Vấn chép: “Ta bảo cõi nước Vô Lượng Thọ dễ về, dễ sanh, mà không ai chịu tu hành vãng sanh, ngược lại còn thờ phụng 96 phái ngoại đạo. Ta bảo kẻ ấy [là hạng] không mắt, không tai!” Các kinh Bi Hoa, Ðại Vân, Ðại Tập, Quán Phật Tam Muội, Thập Trụ Ðoạn Kết, Văn Thù Bát Nhã, Bảo Tích, Tọa Thiền Tam Muội... đều đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Các bộ luận Ðại Thừa cũng đề xướng pháp môn Niệm Phật, chẳng hạn như Ðại Trí Ðộ Luận chép: “Niệm Phật diệt trừ được các thứ phiền não và các tội nghiệp từ đời trước... [cho đến] niệm Phật có đại phước đức, độ được chúng sanh.... phước đức của các tam muội khác chẳng bằng được phước đức của Niệm Phật Tam Muội”. Tỳ Bà Sa Luận gọi Niệm Phật là đạo dễ hành, mau thoát sanh tử. Luận chép: “Phật có vô lượng pháp môn, như đường đi trên thế gian có dễ, có khó. Ði bộ thì khó, ngồi thuyền thì dễ. Muốn dễ được sanh hãy nên mau niệm A Di Ðà Phật”. Các bộ luận khác như Ðại Thừa Khởi Tín Luận của Bồ Tát Mã Minh, Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận của Ngài Thế Thân, Thập Nghi Luận của tổ Trí Khải, Nhiếp Ðại Thừa Luận, Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận... đều cực lực đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Ngoài ra, trên thì như các vị thượng thủ Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh đều phát nguyện vãng sanh. Chư tổ sư như Ngài Lô Sơn Huệ Viễn, Bách Trượng thiền sư, Thanh Lương Quốc Sư (Ngài Trừng Quán), Linh Chi Nguyên Chiếu luật sư, Tử Bách Lão Nhân, U Khê đại sư, Trí Húc Linh Phong đại sư, Vân Thê Liên Trì đại sư, Hám Sơn đại sư... đều nhiệt thành hoằng truyền, tán dương Tịnh Ðộ.

Cận đại, bậc cao tăng nhà Thiền là Hư Vân Hòa Thượng, ngôi Thái Sơn Bắc Ðẩu của Thiên Thai tông là Ðế Nhàn pháp sư (xem tập Khai Thị Niệm Phật Khẩn Yếu), đại sư Thái Hư thuộc tông Duy Thức (xem Tịnh Ðộ Pháp Môn Tập), Hoằng Nhất đại sư bên Luật Tông (xem tác phẩm Nhân Sanh Tối Hậu) ngoài việc hoằng dương tông mình, đều cực lực xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ.

Hãy thử nghĩ: Ðại Tạng Kinh đầy dẫy kinh luận, ngữ lục tán dương Tịnh Ðộ, lịch đại hiền triết đích thân tu tập, thành tựu vãng sanh; vậy thì Cực Lạc có phải là cõi tưởng tượng hay không? Kinh Di Ðà có phải là lời ngụ ngôn của đức Phật Thích Ca hay không?

 b. Tin vào Phật nguyện:

Chữ Phật ở đây chỉ đức A Di Ðà Phật, nguyện là nguyện lực, tức biển thệ nguyện lực vô biên của đức A Di Ðà Như Lai chân thật, không dối. Chúng ta phải tin rằng: Y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc chính là do lực dụng vĩ đại của Phật đại nguyện lực tạo thành. Trong quá khứ, Ngài đã phát thậm thâm hoằng nguyện, bao đời tu hành khổ hạnh, chẳng thoái thất tâm ban đầu, nguyện nguyện trang nghiêm Tịnh Ðộ, tạo thành thế giới Cực Lạc thù thắng khôn sánh. Phật là bậc đại thánh nhân, tuyệt đối không thệ nguyện hư huyễn. Bốn mươi tám nguyện của Từ Phụ Di Ðà siêu tuyệt thệ nguyện của chư Phật, nên cổ đức tán thán: “Thập phương tam thế Phật, A Di Ðà bậc nhất”.

 c. Tin vào cõi Phật:

Tin cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy các cõi Tịnh Ðộ trong mười phương. Mỗi mỗi sự tướng trong cõi ấy đều thù thắng khôn sánh, đều phát xuất từ lực dụng A Di Ðà Như Lai đại thệ nguyện hải.

d. Tin vào pháp môn:

Tin pháp môn Niệm Phật độ khắp ba căn, thượng căn là bậc Ðẳng Giác như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù v.v..., trung căn như chư tổ Tây Thiên, Ðông Ðộ: Long Thọ, Mã Minh, Huệ Viễn, Ngẫu Ích, Liên Trì v.v... ; hạ căn như kẻ ngu phu, ngu phụ, ngũ nghịch, thập ác, chim vẹt, chim sáo v.v... Hễ ai chịu phát tâm niệm Phật cầu được vãng sanh thì đều được đới nghiệp vãng sanh, được Phật từ bi rủ lòng tiếp dẫn. Dẫu là hàng Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi tiếp độ của pháp môn này. Bởi thế, pháp môn Niệm Phật chính là tu trọn muôn hạnh, một câu hồng danh trọn đủ vạn đức. Hành nhân Tịnh Ðộ phải tin pháp môn này là tối thắng, tối diệu, bất tất phải tu kèm các pháp môn khác. Pháp môn này chắc chắn độ chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, rốt ráo thành Phật. Dù hành nhân còn đầy dẫy phiền não vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh, đắc bất thoái chuyển.

 e. Tin vào tự tâm:

Bổn tánh của chúng ta linh giác bất muội, chân tâm ta thường trụ bất biến, chẳng hề khác biệt gì với chân tâm của đức Di Ðà. Nhưng từ vô thỉ đến nay, tâm ta bị phiền não che lấp, nên phải luân hồi sanh tử chẳng ngơi. Nhất tâm niệm Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật Di Ðà huân tập tâm ta, sẽ tiêu diệt được nghiệp chướng trong ức kiếp sanh tử. Khi hoặc chướng đã tiêu trừ hết thì sẽ tự nhiên chứng đắc Chánh Giác.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn sẵn đủ tướng đức, trí huệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều sẽ hiện tiền”. Bởi đó, duy tâm Tịnh Ðộ ai cũng có phần, đừng tự khinh mình là phàm phu, nghiệp nặng cấu dày, chẳng có duyên phận chi với cõi Cực Lạc. Tuy ta là phàm phu điên đảo mê hoặc, nhưng chân tâm này chẳng mất. Nếu một niệm hồi quang phản chiếu, giữ chắc Phật hiệu, quyết sẽ được vãng sanh. Tâm tánh chúng ta vốn chẳng thể nghĩ bàn, A Di Ðà Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, sáu chữ hồng danh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Dùng tâm chẳng thể nghĩ bàn trì niệm danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn để vãng sanh về cõi nước thù thắng do nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn tạo thành là chuyện thập phần xác đáng, còn ngờ chi nữa!

 f. Tin vào sự lý:

 Tin vào sự lý viên dung.

* Tin Sự là tin ở phía Tây thế giới Sa Bà này, cách đây mười vạn ức cõi Phật, quả thật có cõi Cực Lạc, chúng sanh cõi ấy không có các nỗi khổ, y báo, chánh báo trang nghiêm. Nếu chúng ta trong một đời này tin sâu, nguyện thiết, chắc thật trì danh, sẽ chắc chắn được liên hoa hóa sanh, vĩnh viễn thoát khỏi khổ nạn, đắc đại giải thoát.

 Nếu có kẻ cật vấn:

- Ðại Thừa Bát Nhã dạy hết thảy pháp là không. Nếu hết thảy đã là không, sao còn có thuyết “thật có cõi Tây Phương Cực Lạc?” Kinh luận còn dạy: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” thì làm sao ở ngoài tâm thức, lại có thể có tịnh độ của chư Phật được?

Ðáp:

- Ôi chao! Lời nạn ấy thật là vì chưa hiểu rõ đạo lý “viên dung nhất thật” của nhà Phật vậy! Phải biết rằng nhà Phật nói “không” đó là để phá chấp, tức là đối với Có mà nói Không. Nhưng Có mà chẳng phải Có mới là Diệu Hữu, Không chẳng phải là Không mới là Chân Không. Nên biết rằng hết thảy pháp đều do nhân duyên sanh, vốn chẳng có tự tánh. Duyên sanh bèn có, duyên diệt thành không. Do vô tự tánh nên bảo hết thảy pháp là không. Do vì duyên sanh nên bảo hết thảy pháp là có. Bởi vậy mới bảo là Chân Không chẳng lìa Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng ngại Chân Không. Thế nên duy tâm chẳng ngại Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ cũng chẳng phương ngại gì đến cái Không của duy tâm. Nếu bảo: “Duy tâm tịnh độ, tịnh độ duy tâm” thì còn đúng; chứ khăng khăng chỉ có chân không, chẳng hề có Tịnh Ðộ, thì sẽ thành ra mâu thuẫn.

Hơn nữa, một niệm hiện tiền của chúng ta chẳng thể cùng tận, mười phương thế giới do tâm ta biến hiện cũng chẳng thể cùng tận. Kinh dạy: “Hư không vô tận, thế giới vô tận”. Thế nên chẳng những chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc tồn tại, mà cõi thế giới Lưu Ly ở phương Ðông, vô lượng các thế giới cũng mỗi mỗi đều chắc chắn tồn tại.

* Tin Lý là:

Một niệm tâm hiện tiền của chúng ta đây xét theo chiều dọc thì trùm khắp ba đời, xét theo chiều ngang thì chứa trọn mười phương. Bởi thế mới nói: “Vô biên cõi nước, tự - tha chẳng cách mảy lông”. Mười vạn ức cõi nước khác gì ở ngay trước mắt! Phật tâm bao gồm khắp tất cả, tâm ta cũng bao gồm khắp tất cả, cõi nước cũng bao trùm khắp tất cả, như ánh sáng của ngàn ngọn đèn đặt trong một căn nhà, trùng trùng giao thoa, soi sáng lẫn nhau chẳng hề trở ngại. Y báo, chánh báo, chủ - bạn cõi Tây phương đều hiện bóng trong một niệm tâm hiện tiền của chúng ta. Toàn thể sự chính là lý, toàn bộ vọng chính là chân, toàn thể Tha chính là Tự, nào nhọc phải tìm cầu tự tánh đâu xa, chính nội tâm là Phật Di Ðà.

Nhưng chẳng nên chấp lý bỏ sự, cũng chẳng thể chấp sự mê lý. Chấp lý phế sự thì lý chẳng thể viên dung. Chấp sự mê lý thì công hạnh chẳng cao. Nhưng thà cứ chấp sự mà siêng năng tu tập ắt sẽ chẳng uổng công, quyết được vãng sanh! Nếu chấp lý, hoàn toàn không dụng công thực hành, chỉ e mắc phải họa Thiên Không. Bởi vậy, nếu có thể viên dung giải ngộ lý sự một cách sâu xa thì mới là tận thiện, tận mỹ vậy!

g. Tin vào nhân - quả:

Cái có khả năng sanh trưởng là Nhân, giống như hạt giống; cái do nhân ấy được thành tựu gọi là Quả. Lại nữa, việc làm ban đầu là Nhân, cảm thọ hậu báo là Quả. Nhân nào, quả nấy là lẽ tự nhiên. Mọi việc trên thế gian này không việc gì chẳng do Nhân mà kết thành Quả cả.

Nay ta phát một niệm chân tâm, niệm Phật là Nhân, quyết định vãng sanh thế giới Cực Lạc, rốt ráo thành Phật là Quả. Dẫu tán tâm xưng danh vẫn kết thành hạt giống Như Lai, vãng sanh Tịnh Ðộ; huống hồ là niệm được nhất tâm bất loạn, lẽ nào chẳng được vãng sanh ư?

2. Nguyện:

Nguyện là phát nguyện vãng sanh. Dẫu có lòng tin sâu đậm, nhưng nếu chẳng phát nguyện vẫn khó lòng thành tựu, chẳng đạt được lợi ích thực sự. Cũng như bệnh nhân nghe bác sĩ bảo có thứ thuốc nọ rất hay, cũng tin tưởng là thứ thuốc ấy rất tuyệt, nhưng chẳng chịu uống thuốc. Ðã không chịu uống thuốc, còn mong lành bệnh sao được!

Ðã biết Sa Bà là khổ, là nhơ uế, thì cần phải buông bỏ, phải chán lìa. Ðã biết Tây Phương là vui, là thanh tịnh, thì phải nên cầu, nên ưa thích. Ðấy mới chính là mục đích của hành nhân Tịnh nghiệp.

Nguyện gồm có sáu điều:

a. Nguyện bỏ hết thảy các phiền não tham, sân, si... nhất tâm cầu sanh Cực Lạc.

b. Nguyện từ nay trở đi vĩnh viễn chẳng khởi các ác nghiệp để khỏi đọa vào tam ác đạo, cầu sanh Cực Lạc

c. Nguyện bao nhiêu thiện nghiệp đã tạo chẳng vì cầu sanh trong cõi trời người thọ hưởng phú quý, chuyên tâm nhất ý hồi hướng, nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc.

d. Nguyện dù gặp phải tai nạn, nghịch cảnh, bệnh khổ đến thế nào đi nữa, trọn chẳng thay đổi tấm lòng niệm Phật.

e. Nguyện bao nhiêu công đức do trì giới, bố thí, tụng kinh, lễ Phật... đều hồi hướng về Tịnh Ðộ, để làm trợ duyên cho việc vãng sanh.

f. Nguyện pháp giới hết thảy chúng sanh cùng phát tâm niệm Phật, cùng sanh Cực Lạc.

Nói tóm lại, nguyện tâm tha thiết, vãng sanh chẳng khó gì! Nếu chẳng phát nguyện, hoặc nguyện tâm chẳng tha thiết sẽ trọn chẳng được sanh về thế giới Cực Lạc. Dẫu có lòng tin thì lòng tin ấy cũng chỉ là hư dối, chẳng thọ hưởng lợi ích thật sự nào; bởi thế phải nên phát nguyện chân thành, tha thiết.

3. Trì Danh: 

 Trì là chấp trì (nắm giữ), Danh là danh hiệu. Vì sao cần phải trì danh? Trì niệm một câu hồng danh A Di Ðà Phật thì sẽ được đầy đủ mọi đức, thâu tóm trăm hạnh (đấy là vì danh hiệu A Di Ðà bao gồm vạn đức, trong phần giải thích danh hiệu A Di Ðà sẽ luận rõ hơn). Ðấy là do công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Ðà Như Lai vậy. Nếu chỉ đủ tín nguyện mà chẳng chân thật tu trì vẫn chẳng được vãng sanh; khác nào bánh vẽ chẳng thể đỡ đói, khác nào suốt đời đếm của báu cho người, tự mình chẳng được lợi lạc gì!

 Trong bốn pháp niệm Phật (Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, Trì Danh), Trì Danh là pháp tu rộng rãi nhất (vì mọi căn cơ đều tập được), hạ thủ dễ dàng, nhanh chóng, là pháp tu phương tiện bậc nhất trong các pháp phương tiện, là pháp viên đốn tối cực, là pháp vô thượng liễu nghĩa. Kinh này chuyên dạy pháp Trì Danh, nên chúng ta phải tận lực trì danh chẳng phân biệt ngày đêm, chẳng luận bận, rảnh, chỉ khăng khăng chấp trì sáu chữ Di Ðà hồng danh chẳng quên, thì sẽ tự nhiên đạt được nhất tâm bất loạn, lâm chung quyết định được Phật tiếp dẫn vãng sanh. Nếu tâm niệm Phật lơ là, hời hợt, quyết chẳng được vãng sanh. Dù chẳng được vãng sanh, vẫn gieo trồng thiện căn thành Phật trong đời tương lai. Bởi thế cổ đức bảo: “Tán xưng vi Phật chủng, chấp trì đậu bất thoái” (tán tâm xưng danhchủng tử Phật, chấp trì [danh hiệu] sẽ đạt được bất thoái).

 Hành nhân niệm Phật phải có tín tâm kiên cố, chẳng bị hết thảy tà ma, ngoại đạo, tà sư khuấy động, đến nỗi hủy báng đánh mất đạo tâm. Ðại nguyện phải kiên cố, chẳng bị lay động bởi nghịch cảnh, danh lợi, quyền thế, đến nỗi thoái thất đạo tâm. Trì danh phải chuyên tâm thiết tha, đừng nên tạp tu, lơ là, chớ có hễ gặp chuyện bất như ý liền buông xuôi chẳng niệm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26635)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28230)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29361)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33258)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21745)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30616)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31237)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37132)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32259)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27101)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20607)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22241)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23965)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22850)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23189)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30399)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30049)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23120)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22311)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21776)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28198)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19239)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20136)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30885)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41496)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32696)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19115)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24961)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23672)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25296)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27744)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24987)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23813)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58658)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23189)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20872)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28140)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28897)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19201)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24573)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21413)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23818)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28597)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29389)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17631)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31008)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25308)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18945)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20116)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23931)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19033)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20147)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20027)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24814)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19394)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22550)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61804)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31118)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22098)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant