Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Hiển minh tông thú

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14806)
III. Hiển minh tông thú


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

III. HIỂN MINH TÔNG THÚ (minh định tông thú của kinh này)

 Tông nghĩa là sùng phụng, là điều được kinh đề cao. Tông chính là đường lối trọng yếu để tu hành. Mục đích của tu hành là khế hội bản thể; do đó, Tông chính là mấu chốt để thực hiện mục đích ấy. Thú là chỗ Tông quy kết về.

 Trong phần trước đã biện minh về Thể, ấy là Tánh đức. Phần này luận về Tông Thú, đấy chính là Tu đức. Từ tánh khởi tu, toàn tu tại tánh. Tánh đức là điều ai cũng sẵn có, nhưng Tu đức là điều mỗi cá nhân phải nỗ lực tu tập để thành tựu.

 Kinh này lấy “Tín, Nguyện, Trì Danh” làm Tông; lấy việc “vãng sanh, viên chứng ba thứ Bất Thoái” làm Thú.

 Ba thứ Tín, Nguyện, Trì Danh (hay còn gọi là Tín, Nguyện, Hạnh) thường được gọi chung là Tư Lương. Ði xa cần phải dắt theo tiền bạc hòng chi dụng, đó gọi là Tư. Mang theo thức ăn, nước nôi, đó là Lương. Như vậy, Tư Lương chính là những phương tiện, vật dụng cần thiết cho bất cứ cuộc hành trình nào.

 Trong ba thứ Tư Lương nói trên, Tín là mấu chốt. Nếu niệm Phật tinh tấn nhưng vẫn chưa thể tin chắc mình sẽ được vãng sanh, chưa tin chắc vào bi nguyện của Phật Di Ðà lẫn cõi Tịnh Ðộ thì chẳng thể phát nguyện chân thành, thiết tha. Nếu tín, nguyện không có thì chẳng thể duy trì hạnh Trì Danh lâu dài được! Nếu thật sự tin sâu, nguyện thiết thì tự nhiên sanh khởi diệu dụng Trì Danh.  

1. Tín:

Tín là đoạn trừ hết thảy ngờ vực, nhưng lòng tin ấy do sự hiểu biết phát xuất từ trí, chứ không phải là tin tưởng một cách mù quáng.

 Tín gồm có bảy điều sau:

 

a. Tin vào lời Phật dạy:

Tin rằng pháp môn Niệm Phật đây chẳng phải do tà ma, ngoại đạo, quỷ thần vọng thuyết, mà do chính kim khẩu của đức Thích Tôn đích thân giảng ra. Ðức Phật là đại đạo sư của tam giới, là cha lành của bốn loài, là bậc quyết định không dối trá. Cổ đức đã nói: “Phật ngôn bất tín, thùy ngôn khả tín?” (chẳng tin lời Phật thì còn tin lời ai được nữa?) Do vậy, phải tin vào lời Phật, đừng nhận lầm kinh này chỉ là do Ðức Phật giả lập phương tiện, Cực Lạccảnh giới tưởng tượng, để đến nỗi tạo tội báng pháp như “tăng” Nhật Liên (khai tổ Tân Pháp Hoa Tông của Nhật Bản) dám phỉ báng kinh A Di Ðà này là ngụy tạo.

 Hơn nữa, pháp môn Niệm Phật được đề cập đến rất nhiều trong các kinh khác. Các pháp môn Tiểu Thừa, Quyền giáo đến thời Pháp Hoa - Niết Bàn đều bị bài xích, nhưng chưa hề thấy trong kinh điển nào Ðức Phật lại chỉ trích pháp môn này là quyền tạm, là phương tiện cả!

Ngoài ra, khi Ðức Phật thuyết kinh này, sáu phương chư Phật đều dị khẩu đồng âm xưng dương, tán thán. Ngay cả bản kinh được xưng tụng là “chúng kinh chi vương” (vua của mọi kinh) là kinh Pháp Hoa cũng chép: “Người tụng kinh này (kinh Pháp Hoa) khi mạng chung sẽ sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà”. Vua trong Tam Tạng, được thế gian xưng tụng là mẹ của các kinh, tức là kinh Hoa Nghiêm, ngay trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng quy hướng vãng sanh Tịnh Ðộ. Kinh báu của nhà Thiền là kinh Lăng Nghiêm, trong chương Thế Chí Niệm Phật Viên Thông cũng dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật, tương lai nhất định thấy Phật”.

Kinh Ban Châu Tam Muội chép: “Bồ Tát nhập tam muội này liền thấy A Di Ðà Phật”. Kinh Mục Liên Sở Vấn chép: “Ta bảo cõi nước Vô Lượng Thọ dễ về, dễ sanh, mà không ai chịu tu hành vãng sanh, ngược lại còn thờ phụng 96 phái ngoại đạo. Ta bảo kẻ ấy [là hạng] không mắt, không tai!” Các kinh Bi Hoa, Ðại Vân, Ðại Tập, Quán Phật Tam Muội, Thập Trụ Ðoạn Kết, Văn Thù Bát Nhã, Bảo Tích, Tọa Thiền Tam Muội... đều đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Các bộ luận Ðại Thừa cũng đề xướng pháp môn Niệm Phật, chẳng hạn như Ðại Trí Ðộ Luận chép: “Niệm Phật diệt trừ được các thứ phiền não và các tội nghiệp từ đời trước... [cho đến] niệm Phật có đại phước đức, độ được chúng sanh.... phước đức của các tam muội khác chẳng bằng được phước đức của Niệm Phật Tam Muội”. Tỳ Bà Sa Luận gọi Niệm Phật là đạo dễ hành, mau thoát sanh tử. Luận chép: “Phật có vô lượng pháp môn, như đường đi trên thế gian có dễ, có khó. Ði bộ thì khó, ngồi thuyền thì dễ. Muốn dễ được sanh hãy nên mau niệm A Di Ðà Phật”. Các bộ luận khác như Ðại Thừa Khởi Tín Luận của Bồ Tát Mã Minh, Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận của Ngài Thế Thân, Thập Nghi Luận của tổ Trí Khải, Nhiếp Ðại Thừa Luận, Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận... đều cực lực đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Ngoài ra, trên thì như các vị thượng thủ Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh đều phát nguyện vãng sanh. Chư tổ sư như Ngài Lô Sơn Huệ Viễn, Bách Trượng thiền sư, Thanh Lương Quốc Sư (Ngài Trừng Quán), Linh Chi Nguyên Chiếu luật sư, Tử Bách Lão Nhân, U Khê đại sư, Trí Húc Linh Phong đại sư, Vân Thê Liên Trì đại sư, Hám Sơn đại sư... đều nhiệt thành hoằng truyền, tán dương Tịnh Ðộ.

Cận đại, bậc cao tăng nhà Thiền là Hư Vân Hòa Thượng, ngôi Thái Sơn Bắc Ðẩu của Thiên Thai tông là Ðế Nhàn pháp sư (xem tập Khai Thị Niệm Phật Khẩn Yếu), đại sư Thái Hư thuộc tông Duy Thức (xem Tịnh Ðộ Pháp Môn Tập), Hoằng Nhất đại sư bên Luật Tông (xem tác phẩm Nhân Sanh Tối Hậu) ngoài việc hoằng dương tông mình, đều cực lực xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ.

Hãy thử nghĩ: Ðại Tạng Kinh đầy dẫy kinh luận, ngữ lục tán dương Tịnh Ðộ, lịch đại hiền triết đích thân tu tập, thành tựu vãng sanh; vậy thì Cực Lạc có phải là cõi tưởng tượng hay không? Kinh Di Ðà có phải là lời ngụ ngôn của đức Phật Thích Ca hay không?

 b. Tin vào Phật nguyện:

Chữ Phật ở đây chỉ đức A Di Ðà Phật, nguyện là nguyện lực, tức biển thệ nguyện lực vô biên của đức A Di Ðà Như Lai chân thật, không dối. Chúng ta phải tin rằng: Y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc chính là do lực dụng vĩ đại của Phật đại nguyện lực tạo thành. Trong quá khứ, Ngài đã phát thậm thâm hoằng nguyện, bao đời tu hành khổ hạnh, chẳng thoái thất tâm ban đầu, nguyện nguyện trang nghiêm Tịnh Ðộ, tạo thành thế giới Cực Lạc thù thắng khôn sánh. Phật là bậc đại thánh nhân, tuyệt đối không thệ nguyện hư huyễn. Bốn mươi tám nguyện của Từ Phụ Di Ðà siêu tuyệt thệ nguyện của chư Phật, nên cổ đức tán thán: “Thập phương tam thế Phật, A Di Ðà bậc nhất”.

 c. Tin vào cõi Phật:

Tin cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy các cõi Tịnh Ðộ trong mười phương. Mỗi mỗi sự tướng trong cõi ấy đều thù thắng khôn sánh, đều phát xuất từ lực dụng A Di Ðà Như Lai đại thệ nguyện hải.

d. Tin vào pháp môn:

Tin pháp môn Niệm Phật độ khắp ba căn, thượng căn là bậc Ðẳng Giác như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù v.v..., trung căn như chư tổ Tây Thiên, Ðông Ðộ: Long Thọ, Mã Minh, Huệ Viễn, Ngẫu Ích, Liên Trì v.v... ; hạ căn như kẻ ngu phu, ngu phụ, ngũ nghịch, thập ác, chim vẹt, chim sáo v.v... Hễ ai chịu phát tâm niệm Phật cầu được vãng sanh thì đều được đới nghiệp vãng sanh, được Phật từ bi rủ lòng tiếp dẫn. Dẫu là hàng Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi tiếp độ của pháp môn này. Bởi thế, pháp môn Niệm Phật chính là tu trọn muôn hạnh, một câu hồng danh trọn đủ vạn đức. Hành nhân Tịnh Ðộ phải tin pháp môn này là tối thắng, tối diệu, bất tất phải tu kèm các pháp môn khác. Pháp môn này chắc chắn độ chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, rốt ráo thành Phật. Dù hành nhân còn đầy dẫy phiền não vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh, đắc bất thoái chuyển.

 e. Tin vào tự tâm:

Bổn tánh của chúng ta linh giác bất muội, chân tâm ta thường trụ bất biến, chẳng hề khác biệt gì với chân tâm của đức Di Ðà. Nhưng từ vô thỉ đến nay, tâm ta bị phiền não che lấp, nên phải luân hồi sanh tử chẳng ngơi. Nhất tâm niệm Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật Di Ðà huân tập tâm ta, sẽ tiêu diệt được nghiệp chướng trong ức kiếp sanh tử. Khi hoặc chướng đã tiêu trừ hết thì sẽ tự nhiên chứng đắc Chánh Giác.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn sẵn đủ tướng đức, trí huệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều sẽ hiện tiền”. Bởi đó, duy tâm Tịnh Ðộ ai cũng có phần, đừng tự khinh mình là phàm phu, nghiệp nặng cấu dày, chẳng có duyên phận chi với cõi Cực Lạc. Tuy ta là phàm phu điên đảo mê hoặc, nhưng chân tâm này chẳng mất. Nếu một niệm hồi quang phản chiếu, giữ chắc Phật hiệu, quyết sẽ được vãng sanh. Tâm tánh chúng ta vốn chẳng thể nghĩ bàn, A Di Ðà Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, sáu chữ hồng danh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Dùng tâm chẳng thể nghĩ bàn trì niệm danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn để vãng sanh về cõi nước thù thắng do nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn tạo thành là chuyện thập phần xác đáng, còn ngờ chi nữa!

 f. Tin vào sự lý:

 Tin vào sự lý viên dung.

* Tin Sự là tin ở phía Tây thế giới Sa Bà này, cách đây mười vạn ức cõi Phật, quả thật có cõi Cực Lạc, chúng sanh cõi ấy không có các nỗi khổ, y báo, chánh báo trang nghiêm. Nếu chúng ta trong một đời này tin sâu, nguyện thiết, chắc thật trì danh, sẽ chắc chắn được liên hoa hóa sanh, vĩnh viễn thoát khỏi khổ nạn, đắc đại giải thoát.

 Nếu có kẻ cật vấn:

- Ðại Thừa Bát Nhã dạy hết thảy pháp là không. Nếu hết thảy đã là không, sao còn có thuyết “thật có cõi Tây Phương Cực Lạc?” Kinh luận còn dạy: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” thì làm sao ở ngoài tâm thức, lại có thể có tịnh độ của chư Phật được?

Ðáp:

- Ôi chao! Lời nạn ấy thật là vì chưa hiểu rõ đạo lý “viên dung nhất thật” của nhà Phật vậy! Phải biết rằng nhà Phật nói “không” đó là để phá chấp, tức là đối với Có mà nói Không. Nhưng Có mà chẳng phải Có mới là Diệu Hữu, Không chẳng phải là Không mới là Chân Không. Nên biết rằng hết thảy pháp đều do nhân duyên sanh, vốn chẳng có tự tánh. Duyên sanh bèn có, duyên diệt thành không. Do vô tự tánh nên bảo hết thảy pháp là không. Do vì duyên sanh nên bảo hết thảy pháp là có. Bởi vậy mới bảo là Chân Không chẳng lìa Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng ngại Chân Không. Thế nên duy tâm chẳng ngại Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ cũng chẳng phương ngại gì đến cái Không của duy tâm. Nếu bảo: “Duy tâm tịnh độ, tịnh độ duy tâm” thì còn đúng; chứ khăng khăng chỉ có chân không, chẳng hề có Tịnh Ðộ, thì sẽ thành ra mâu thuẫn.

Hơn nữa, một niệm hiện tiền của chúng ta chẳng thể cùng tận, mười phương thế giới do tâm ta biến hiện cũng chẳng thể cùng tận. Kinh dạy: “Hư không vô tận, thế giới vô tận”. Thế nên chẳng những chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc tồn tại, mà cõi thế giới Lưu Ly ở phương Ðông, vô lượng các thế giới cũng mỗi mỗi đều chắc chắn tồn tại.

* Tin Lý là:

Một niệm tâm hiện tiền của chúng ta đây xét theo chiều dọc thì trùm khắp ba đời, xét theo chiều ngang thì chứa trọn mười phương. Bởi thế mới nói: “Vô biên cõi nước, tự - tha chẳng cách mảy lông”. Mười vạn ức cõi nước khác gì ở ngay trước mắt! Phật tâm bao gồm khắp tất cả, tâm ta cũng bao gồm khắp tất cả, cõi nước cũng bao trùm khắp tất cả, như ánh sáng của ngàn ngọn đèn đặt trong một căn nhà, trùng trùng giao thoa, soi sáng lẫn nhau chẳng hề trở ngại. Y báo, chánh báo, chủ - bạn cõi Tây phương đều hiện bóng trong một niệm tâm hiện tiền của chúng ta. Toàn thể sự chính là lý, toàn bộ vọng chính là chân, toàn thể Tha chính là Tự, nào nhọc phải tìm cầu tự tánh đâu xa, chính nội tâm là Phật Di Ðà.

Nhưng chẳng nên chấp lý bỏ sự, cũng chẳng thể chấp sự mê lý. Chấp lý phế sự thì lý chẳng thể viên dung. Chấp sự mê lý thì công hạnh chẳng cao. Nhưng thà cứ chấp sự mà siêng năng tu tập ắt sẽ chẳng uổng công, quyết được vãng sanh! Nếu chấp lý, hoàn toàn không dụng công thực hành, chỉ e mắc phải họa Thiên Không. Bởi vậy, nếu có thể viên dung giải ngộ lý sự một cách sâu xa thì mới là tận thiện, tận mỹ vậy!

g. Tin vào nhân - quả:

Cái có khả năng sanh trưởng là Nhân, giống như hạt giống; cái do nhân ấy được thành tựu gọi là Quả. Lại nữa, việc làm ban đầu là Nhân, cảm thọ hậu báo là Quả. Nhân nào, quả nấy là lẽ tự nhiên. Mọi việc trên thế gian này không việc gì chẳng do Nhân mà kết thành Quả cả.

Nay ta phát một niệm chân tâm, niệm Phật là Nhân, quyết định vãng sanh thế giới Cực Lạc, rốt ráo thành Phật là Quả. Dẫu tán tâm xưng danh vẫn kết thành hạt giống Như Lai, vãng sanh Tịnh Ðộ; huống hồ là niệm được nhất tâm bất loạn, lẽ nào chẳng được vãng sanh ư?

2. Nguyện:

Nguyện là phát nguyện vãng sanh. Dẫu có lòng tin sâu đậm, nhưng nếu chẳng phát nguyện vẫn khó lòng thành tựu, chẳng đạt được lợi ích thực sự. Cũng như bệnh nhân nghe bác sĩ bảo có thứ thuốc nọ rất hay, cũng tin tưởng là thứ thuốc ấy rất tuyệt, nhưng chẳng chịu uống thuốc. Ðã không chịu uống thuốc, còn mong lành bệnh sao được!

Ðã biết Sa Bà là khổ, là nhơ uế, thì cần phải buông bỏ, phải chán lìa. Ðã biết Tây Phương là vui, là thanh tịnh, thì phải nên cầu, nên ưa thích. Ðấy mới chính là mục đích của hành nhân Tịnh nghiệp.

Nguyện gồm có sáu điều:

a. Nguyện bỏ hết thảy các phiền não tham, sân, si... nhất tâm cầu sanh Cực Lạc.

b. Nguyện từ nay trở đi vĩnh viễn chẳng khởi các ác nghiệp để khỏi đọa vào tam ác đạo, cầu sanh Cực Lạc

c. Nguyện bao nhiêu thiện nghiệp đã tạo chẳng vì cầu sanh trong cõi trời người thọ hưởng phú quý, chuyên tâm nhất ý hồi hướng, nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc.

d. Nguyện dù gặp phải tai nạn, nghịch cảnh, bệnh khổ đến thế nào đi nữa, trọn chẳng thay đổi tấm lòng niệm Phật.

e. Nguyện bao nhiêu công đức do trì giới, bố thí, tụng kinh, lễ Phật... đều hồi hướng về Tịnh Ðộ, để làm trợ duyên cho việc vãng sanh.

f. Nguyện pháp giới hết thảy chúng sanh cùng phát tâm niệm Phật, cùng sanh Cực Lạc.

Nói tóm lại, nguyện tâm tha thiết, vãng sanh chẳng khó gì! Nếu chẳng phát nguyện, hoặc nguyện tâm chẳng tha thiết sẽ trọn chẳng được sanh về thế giới Cực Lạc. Dẫu có lòng tin thì lòng tin ấy cũng chỉ là hư dối, chẳng thọ hưởng lợi ích thật sự nào; bởi thế phải nên phát nguyện chân thành, tha thiết.

3. Trì Danh: 

 Trì là chấp trì (nắm giữ), Danh là danh hiệu. Vì sao cần phải trì danh? Trì niệm một câu hồng danh A Di Ðà Phật thì sẽ được đầy đủ mọi đức, thâu tóm trăm hạnh (đấy là vì danh hiệu A Di Ðà bao gồm vạn đức, trong phần giải thích danh hiệu A Di Ðà sẽ luận rõ hơn). Ðấy là do công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Ðà Như Lai vậy. Nếu chỉ đủ tín nguyện mà chẳng chân thật tu trì vẫn chẳng được vãng sanh; khác nào bánh vẽ chẳng thể đỡ đói, khác nào suốt đời đếm của báu cho người, tự mình chẳng được lợi lạc gì!

 Trong bốn pháp niệm Phật (Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, Trì Danh), Trì Danh là pháp tu rộng rãi nhất (vì mọi căn cơ đều tập được), hạ thủ dễ dàng, nhanh chóng, là pháp tu phương tiện bậc nhất trong các pháp phương tiện, là pháp viên đốn tối cực, là pháp vô thượng liễu nghĩa. Kinh này chuyên dạy pháp Trì Danh, nên chúng ta phải tận lực trì danh chẳng phân biệt ngày đêm, chẳng luận bận, rảnh, chỉ khăng khăng chấp trì sáu chữ Di Ðà hồng danh chẳng quên, thì sẽ tự nhiên đạt được nhất tâm bất loạn, lâm chung quyết định được Phật tiếp dẫn vãng sanh. Nếu tâm niệm Phật lơ là, hời hợt, quyết chẳng được vãng sanh. Dù chẳng được vãng sanh, vẫn gieo trồng thiện căn thành Phật trong đời tương lai. Bởi thế cổ đức bảo: “Tán xưng vi Phật chủng, chấp trì đậu bất thoái” (tán tâm xưng danhchủng tử Phật, chấp trì [danh hiệu] sẽ đạt được bất thoái).

 Hành nhân niệm Phật phải có tín tâm kiên cố, chẳng bị hết thảy tà ma, ngoại đạo, tà sư khuấy động, đến nỗi hủy báng đánh mất đạo tâm. Ðại nguyện phải kiên cố, chẳng bị lay động bởi nghịch cảnh, danh lợi, quyền thế, đến nỗi thoái thất đạo tâm. Trì danh phải chuyên tâm thiết tha, đừng nên tạp tu, lơ là, chớ có hễ gặp chuyện bất như ý liền buông xuôi chẳng niệm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23949)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41204)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19678)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23972)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27490)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26545)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29303)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33171)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25755)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31288)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38537)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21414)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44234)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29805)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42168)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22126)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45726)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32101)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29239)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33901)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27667)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21055)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28838)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21557)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28050)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22054)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21419)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19819)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19229)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29163)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23638)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31828)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21362)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39606)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21541)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26366)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21742)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22366)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29122)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22548)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20460)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23505)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21228)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35288)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant