Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11349)
02. Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA

ĐẠI PHẬT ĐẢNH, NHƯ LAI MẬT NHÂN, TU CHỨNG LIỄU NGHĨA, CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG.


Đời Đường, Ngài Bát Lạt Mật Đế, sa môn xứ Thiên Trúc, dịch; Ngài Di Già Thích Ca, Sa môn xứ Ô Trường, dịch ngữ. Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới đệ tử chép.

Đời Minh, Bồ Tát Giới đệ tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi, Tông Thông.

Thông rằng: Kinh này tại sao lại đặt tên là “Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”? Kinh chép: “Khi ấy, Đức Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từ trong đại chúng, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng: “Phải gọi kinh này tên gì? Tôi cùng với chúng sanh làm thế nào phụng trì?”

Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này tên Đại Phật Đảnh, Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Bạch Tán Cái), ấn báu vô thượng, Hải Nhãn trong sạch của mười phương Như Lai. Cũng gọi là cứu hộ người thân, độ thoát A Nan, và Tánh Tỳ kheo ni ở trong hội này, đắc tâm Bồ Đề, bước vào biển Biến Trí. Cũng gọi là “Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa”. Cũng gọi là “Đại Phương Quảng, Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni chú”. Cũng gọi là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Ông nên thọ trì”.

Đoạn kinh trên gồm nhiều nghĩa, chỉ cần ba chữ “Đại Phật Đảnh” là bao gồm hết. Bởi vì Phật Đảnh thần chú, tức là mười phương Phật Mẫu Đà La Ni chú, tức là Quán Đảnh Chương Cú, tức là độ thoát Anan và Tỳ kheo ni Tánh, do đó khỏi lập lại. Chú này là “Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra”, dịch là “Đại Bạch Tán Cái”, là cái Lọng Trắng Lớn Che Trùm. Ròng trắng phau trong sạch, trùm che hết thảy, nên gọi là lớn. Đại Phật Đảnh thần chú này, chẳng thể nghĩ bàn, mới gọi là Nhân Địa Bí Mật [Như Lai Mật Nhân] của Như Lai, cái Liễu Nghĩa của Tu Chứng. Vạn Hạnh của Bồ Tát do đây mà sẵn đủ, nên cả thảy rốt ráo bền chắc vậy. Pháp có thể Tiệm mà không thể Đốn, thì không thể gọi là Đại. Có thể Đốn mà không thể Viên, thì cũng không gọi là Đại (lớn) được. Nay nói là Mật, là Liễu, tức là đã gồm nghĩa Đốn. Nói là Tu Chứng, nói là Vạn Hạnh là ngầm nghĩa Viên. Duy cái pháp môn Viên Đốn [Tròn vẹn, tức thời.]nầy, cùng với Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm KinhDiệu Pháp Liên Hoa Kinh, không khác. Từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Diệu Giác là đã bao gồm trong Hoa Nghiêm; còn Nhĩ Căn Viên Thông trọn cùng phẩm Phổ Môn tương ứng. Gồm đủ chỉ thú của hai bộ kinh trên, kinh Lăng Nghiêm thật rộng lớn biết bao!

Chưa ngộ, thì chuyển Cái chẳng có Sanh Diệt thành ra Cái Sanh Diệt, tức chẳng phải Liễu Nghĩa. Ngộ rồi, thì chuyển Cái Sanh Diệt thành ra Cái Chẳng Có Sanh Diệt, tức là nghĩa “Hết thảy rốt ráo kiên cố”. Cho nên, một đường đi lên, [Hướng thượng nhất lộ] không ngộ thì không được. Thế thì Chú và Ngộ liên quan thế nào, Ngộ và Chú quan hệ với nhau ra sao, mà đều cũng gọi là Đại Phật Đảnh? Chú không thể nghĩ bàn, Ngộ cũng không thể nghĩ bàn. Chú tức là cảnh giới của Ngộ, Ngộ tức là cảnh giới của Chú. Đây là chỗ “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ tuyệt”, thấy do lìa cái Thấy, thì cái Thấy là siêu việt. Cho nên giữ cái Phật Đảnh, lìa cái Tướng Thấy của mình là vậy. Các dòng giống của Phật Đảnh, một phen vượt lên nhập thẳng vào, đó là pháp môn cực tôn cực quý vậy. Hiệp Luận đặt tên là Tôn Đảnh vì lẽ này.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá rằng: “Vô Biên Thân Bồ Tát [Tên khác của Đức Như Lai] vì sao chẳng thấy Đảnh Tướng của Như Lai?”

Ngài Bá đáp: “Thật không thể thấy. Vì sao thế? Vô Biên Thân Bồ Tát tức là Như Lai, không thể trở lại thấy. Chỉ cần ông không tạo ra cái Phật Kiến thì không rơi vào Phật Biên. Không tạo ra cái Thấy Chúng Sanh thì không lạc vào giới hạn chúng sanh. Không gây ra cái Thấy Có thì không lạc vào giới hạn của cái Có. Không tạo ra cái Thấy Không thì không rơi vào giới hạn của cái Không. Không tạo ra cái Thấy của phàm phu thì không rơi vào giới hạn của phàm phu. Không tạo ra cái Thấy của Thánh thì không rơi vào giới hạn của Thánh. Chỉ Không tất cả mọi cái Thấy, tức là Vô Biên Thân. Nếu có chỗ Thấy, tức là ngoại đạo. Ngoại đạo thì ham các cái Thấy. Bồ Tát nơi mọi cái Thấy mà chẳng động. Như Lai là nghĩa Như của tất cả các Pháp, nên nói “Di Lặc cũng là Như”. [Kinh Duy Ma Cật] Như tức là không có Sanh ra, Như tức là không có Diệt mất. Như tức là không có Thấy, Như tức là không có Nghe. Đảnh tức là Viên (tròn), cũng không có cái thấy Viên, nên chẳng rơi vào biên giới của Viên. Bởi thế, thân Phật là Vô Vi, không rơi vào giới hạn. Tạm lấy Hư Không làm thí dụ. Tròn đầy như Hư Không rộng lớn, không thiếu không dư. Hãy nhàn nhã vô sự, chớ gắng gượng biện biệt cảnh giới giác ngộ, biện biệt thì thành Thức”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Bá Trượng: “Bồ Tát Vô Biên Thân không thấy Đảnh Tướng của Như Lai là vì sao?”

Tổ Trượng rằng: “Vì gây ra cái Thấy Hữu Biên, cái Thấy Vô Biên, nên chẳng thấy được Đảnh Tướng Như Lai. Chỉ như bây giờ đây trọn không có cả thảy cái Thấy Hữu Vô, cũng không phải là không có cái Thấy, thì đó là thấy Đảnh Tướng”.

Xem hai vị tôn túc nói ra nghĩa Phật Đảnh, thật như viên ngọc tròn lăn trên bàn. Nếu biết chỗ ấy mới cho là trên cửa Đảnh, có được con mắt lẻ [Nhất chích nhãn: một con mắt, con mắt Đạo.] Đã nói là Như Lai Mật Nhân, tức chẳng cậy mượn sự Tu Chứng. Lại nói Tu chứng liễu nghĩa [Tu cho chứng được chỗ hiểu nghĩa.] là để phân biệt với Chẳng có liễu nghĩa vậy [Chưa được chỗ hiểu nghĩa Như Lai Mật Nhân]. Như Lai, ấy là nói về quả vậy. Kinh Kim Cang: “Nếu có người nói “Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm”, thì người ấy chẳng hiểu nghĩa chỗ ta nói. Vì sao thế? Như Lai là không từ chỗ nào đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai”. “Đến không từ chỗ nào, đi không về đâu”, quả là vật gì? Thế mới gọi là Mật vậy. Phật Đảnh Thần ChúMật Ngữ của Như Lai, thì hai cái Mật (Mật NgữNhư Lai) đó không phải là hai. Lấy cái Mật này làm Nhân, tức lấy cái Mật ấy đắc quả. Như đóa bông sen, nhân quả đồng thời sẵn đủ. Dùng cái này mà tu, thì tu mà không tu. Dùng cái này để chứng, thì chứng mà không chứng. Kinh nói “Nào mượn sự cực nhọc tu chứng”, đây tức là ý chỉ của Liễu Nghĩa. Nếu không được như thế là vì chưa liễu ngộ vậy.

Xưa, Huệ Minh đuổi kịp Đức Lục Tổ để dành y bát.

Tổ dạy: “Ông đã vì Pháp mà đến, hãy an dừng các duyên, không sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói”.

Ông Huệ Minh im lặng hồi lâu, Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy, là Bản Lai Diện Mục [Bản Lai Diện Mục: cái xưa nay trước mặt.] của Minh Thượng Tọa”.

Ông Huệ Minh nghe xong, đại ngộ.

Lại hỏi: “Ngoài lời mật, ý mật ấy, còn cái ý mật nào không?”

Tổ đáp: “Đã nói cùng ông, tức chẳng phải Mật. Nếu ông soi trở lại, thì Mật ở tại bên ông”.

Thầy Minh thưa: “Tôi mặc dầu ở Huỳnh Mai, mà thật chưa tỏ ngộ được mặt mũi của mình. Nay nhờ ơn chỉ bày, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là thầy của tôi vậy”.

Tổ dạy: “Ông đã như vậy, thì nay tôi và ông cùng một thầy Huỳnh Mai. Hãy khéo tự hộ trì”.

Ngài Hoài Nhượng ban đầu ra mắt Đức Trung Sơn An thiền sư, hỏi : “Thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây [Ấn Độ] đến?”

Tổ An nói: “Sao không hỏi cái ý của chính ông?”

Ngài bèn hỏi: “Thế nào là ý của chính mình?”

Tổ Sơn đáp: “Cần quán xét cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng”.

Hỏi: “Như thế nào là cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng?”

Tổ Sơn dùng mắt mở, nhắm chỉ bày đó.

Sư Nhượng không lãnh hội được. Tổ Sơn bèn bảo Ngài ra mắt Đức Lục Tổ.

Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”

Sư Nhượng đáp: “Tung Sơn”.

Tổ hỏi: “Vật gì đó? Đến thế nào?”

Sư chẳng đáp dược.

Trải qua tám năm, mới bạch với Tổ rằng: “Tôi đã có chỗ am hiểu”.

Tổ hỏi: “Như thế nào?”

Ngài đáp: “Nói giống như một vật là chẳng trúng!”

Tổ hỏi: “Lại có thể tu chứng chăng?”

Đáp rằng: “Tu chứng thì chẳng phải là không, mà ô nhiễm thì chẳng thể được”.

Tổ rằng: “Hay lắm! Cái chẳng có ô nhiễm ấy, là chỗ hộ niệm của chư Phật. Ông đã y vậy, ta cũng y vậy”.

Như hai vị tôn túc ấy, khế hợp sâu xa cái Mật Ý, được Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Sau, có vị sư hỏi Tổ Bá Trượng: “Trước đến giờ, chư Tổ đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào?”

Tổ đáp: “Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó là Mật Ngữ. Từ bậc Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) trở lên cho đến Thập Địa, bất quá chỉ có Chữ và Lời (Ngữ Cú), còn là thuộc về pháp Trần Cấu hết thảy. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều nằm trong phiền não. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều thuộc về Bất Liễu Nghĩa. Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?”

Theo chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.

Các vị Bồ Tát muôn Hạnh chưa lìa tu chứng thì sao lại gọi là “Hết thảy rốt ráo kiên cố”? Sở dĩ như vậy vì các Bồ Tát chưa tới địa vị Quán Đảnh, phải có tu, có chứng. Đến địa vị Quán Đảnh rồi, tức là siêu nhập đồng đẳng bậc Diệu Giác, thì có cái gì tu chứng? Các Hành tuy vô thường, nhưng từ trong Diệu Giác lưu xuất ra tất cả sự pháp, đương xứ tịch diệt, nên gọi là rốt ráo kiên cố.

Kinh nói “Có cái Tam Ma Địa [Samadhi. Xưa gọi là Tam Muội] (Chánh Định), gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, sẵn đủ muôn Hạnh. Mười phương Như Lai do một cửa này mà siêu xuất, đây là con đường Diệu Trang Nghiêm”. Tam Ma Đề này là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, lối Diệu Trang Nghiêm sẵn đủ muôn Hạnh, chẳng phải rời lìa muôn Hạnh mà riêng có cái gọi là Định. Tất cả đều Định, nên gọi là tất cả sự rốt ráo kiên cố. Đức Phó Đại Sĩ, ngày thì kinh doanh gây tạo, đêm thì hành Đạo. Thấy Đức Thích Ca, Đức Kim Túc, Đức Định Quang ba vị Phật phóng quang phủ lên mình Ngài. Đại Sĩ mới nói: “Ta được Định Thủ Lăng Nghiêm”. Thuở đó, kinh này chưa đến mà tên Định đã nêu, lạ lùng thay.

Tứ Tổ Đạo Tín [Đời Đường Cao Tông, nối pháp Tổ Tăng Xán, truyền lại cho Tổ Hoằng Nhẫn] dạy Ngài Lại Dung ở núi Ngưu Đầu rằng: “Trăm ngàn pháp môn đều quy về Tâm, hằng sa Diệu Đức gồm tại nguồn Tâm. Tất cả Giới Môn, Định Môn, Huệ Môn, thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ, chẳng rời tâm ông. Hết thảy Phiền Não, Nghiệp Chướng xưa nay rỗng rang vắng lặng. Hết thảy Nhân Quả đều như mộng huyễn. Chẳng có ba cõi để lìa, không có Bồ Đề nào để tìm cầu. Người cùng chẳng phải người, Tánh Tướng bình đẳng. Đại Đạo rỗng suốt, tuyệt nghĩ, tuyệt lo. Cái Pháp như thế, ông nay đã được, tuyệt không thiếu hụt, cùng Phật không khác, nào có Pháp nào khác nữa. Ông chỉ mặc dùng tự tại, chớ khởi Quán Hạnh, cũng chẳng lóng Tâm, chẳng khởi Tham Sân, chẳng giữ lo buồn, thênh thang vô ngại, mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, không gây các điều ác. Đi, đứng, nằm, ngồi, chạm mắt gặp duyên, thảy đều là Diệu Dụng của Phật. Vui sướng không lo nên gọi là Phật”.

Được nghe thế, Ngài Lại Dung mở ra một chi phái, gọi là Quán Đảnh Chương Cú.

Ngài Pháp Nhãn dạy: “Tu hành trải qua ba đời sáu chục kiếp, bốn đời một trăm kiếp hay tăng kỳ kiếp cho đến thành quả mà cổ nhơn còn nói là chẳng bằng một niệm duyên khởi Vô Sanh, siêu quá hàng Tam Thừa Quyền Học”. Nên chi nói rằng : Gảy móng tay mà viên thành tám vạn Pháp Môn, trong sát na dứt hết ba a tăng kỳ kiếp. Trong Thiền Tông quả có chuyện kỳ đặc đó, há phải vạn hạnh đầy đủ, rồi sau mới đắc Định Thủ Lăng Nghiêm ư ?

Kinh là Thường Đạo vậy. Cuốn Thuyết Văn Giải Tự viết: “Dệt vải có sợi dọc (kinh), sợi ngang (vĩ): sợi dọc thì thường hằng, mà sợi ngang thì thay đổi. Kinh này do Ngài Long Thọ ở dưới Long Cung mặc tụng đem lên. Vua Ngũ Thiên [Ở miền Nam Aán] trân trọng giữ kín chẳng có truyền ra. Há chẳng biết rằng quyển kinh này người người sẵn có, đâu có ai không! Thế mới là Thường Đạo, nào phải là bí mật”.

Có vị tăng hỏi Ngài Thủ Sơn: “Tất cả Chư Phật đều do kinh này mà có ra. Thế nào là kinh này?”

Tổ Sơn đáp: “Nói nhỏ! Nói nho!”

Vị tăng hỏi: “Thọ trì thế nào?”

Tổ Sơn rằng: “Chẳng nhiễm ô”.

Ngài Đầu Tử [Nghiã Thanh thiền sư, đời Đường. Nối pháp Đại Dương Huyền thiền sư.] tụng rằng:

“Nước chảy Côn Luân, núi nổi mây

Người đến, tiều ngư chẳng có hay

Nếu biết núi cao, sông tràn nước

Ắt chẳng quăng rìu với bỏ dây”.

(Thủy xuất Côn Luân, sơn khởi vân

Điếu nhân, tiều phụ muội lai nhân

Chỉ tri hồng lãng, nham loan khoát

Bất khẳng phao ty khí phụ cân)

Tổ Dược Sơn bình thường không cho người ta xem kinh. Có lần tự Ngài xem kinh. Một vị tăng hỏi: “Hòa Thượng bình thường không cho người xem kinh, sao Hòa Thượng lại xem?”

Tổ Sơn rằng: “Ta chỉ cần che mắt”.

Vị tăng hỏi: “Tôi bắt chước Hòa Thượng được không?”

Tổ Sơn nói: “Ông muốn xem thì phải suốt qua tấm da trâu [Da trâu: ngưu bì. Trùm da trâu đi ra nắng càng bị bó cứng; buộc râu rồng (long tu) Xuống nước càng thắt chặt, đau đớn. Hai cái dùng để chỉ cái phước hữu lậu của người và trời làm hại huệ mạng] đã”.

Cho nên, rõ được chỗ che mắt này, thì mới được cái Diệu của sự Thọ Trì. Mà có xuyên thủng mới chẳng nhiễm ô vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15682)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16381)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23582)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17469)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81299)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19584)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20230)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47432)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39171)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15819)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23204)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19275)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15177)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16816)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13039)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13139)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48982)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23312)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19402)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17161)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32097)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27457)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14316)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14774)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18610)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16416)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13903)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17276)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19370)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28044)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14382)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16934)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22177)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23320)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28016)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64809)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33202)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40179)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25131)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50230)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38523)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27317)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28568)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52226)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35877)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32908)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50825)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74902)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36133)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48987)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31018)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33937)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28906)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58826)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46266)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43834)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43221)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45925)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48028)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63742)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant