Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Đốn Ngộ Pháp ThânPhát Nguyện

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12381)
03. Đốn Ngộ Pháp Thân Và Phát Nguyện

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 7: Tóm Thu Về Như Lai Tạng


III. ĐỐN NGỘ PHÁP THÂNPHÁT NGUYỆN

Kinh: Lúc bấy giờ, Ông Anan và cả đại chúng nhờ Phật Như Lai vi diệu chỉ bày, thân tâm rỗng rang, không gì chướng ngại. Cả đại chúng ấy, mỗi người đều tự biết Tâm đầy khắp mười phương. Thấy mười phương Không như xem chiếc lá trong bàn tay, tất cả thế gian, hết thảy vật gì cũng đều là Bồ Đề Diệu Minh Nguyên Tâm. Tâm Tánh tròn khắp, trùm chứa cả mười phương cõi nước. Nhìn trở lại cái thân cha mẹ sanh ra, như một hạt bụi trong hư không mười phương, như còn như mất. Như biển lớn lặng trong, nổi trôi một bọt nước, khởi diệt chẳng màng. Rõ ràng tự biết, vào được cái Tâm nhiệm mầu xưa nay, thường trụ bất diệt.

Được cái chưa từng có, bèn chấp tay lễ Phật, đối trước Như Lai, nói lên bài kệ xưng tán bậc Giác Ngộ.

Thông rằng: Tâm Tánh tròn khắp, hết thảy mười phương đều bao trùm trong đó, Tâm Lượng rộng lớn vô biên, nên tự nó như thế. Cho đến thấy mười phương Không như vật trong bàn tay, trong đó có cả Thân Chánh Báo và hết thảy vi trần, đó cũng mới là Hội Vọng Về Chân, dường còn cái Nhị Kiến. So với cái Thấy “Thân tâm nhất như, ngoài thân không vật” vẫn còn cách một sự xả bỏ [Nghĩa là có chi đâu mà buông bỏ] vậy.

Quan đại phu họ Lục hỏi Tổ Nam Tuyền rằng: “Ngài pháp sư Tăng Triệu thật là kỳ đặc, Ngài nói : Trời đất với ta đồng nguồn, vạn vật cùng ta một thể”.

Tổ Nam Tuyền chỉ cây mẫu đơn trước sân mà nói: “Này đại phu! Vậy mà người đời thấy cây hoa này như mộng ảo!”

Ông Lục hụt hẫng.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Thấy Nghe Hay Biết đều chẳng phải

Núi sông sao lại thấy trong gương

Trời sương trăng xế, đêm gần nửa

Ai soi bóng lạnh với đầm trong”.

(Văn kiến giác tri phi nhất nhất

Sơn hà bất tại cảnh trung quan

Sương thiên nguyệt lạc dạ tương bán

Thùy cọng trừng đàm chiếu ảnh hàn).

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Soi thấu, ngoài vi đấy cội nguồn

Xôn xao khởi diệt, thấy Diệu Môn

Thần chơi ngoài kiếp, gì là Có?

Để mắt nhìn ra, biết Diệu Tồn

Cọp rống ào ào hang núi vắng

Rồng ngâm muôn vẻ động mù mây

Nam Tuyền điểm phá người đời mộng

Biết đấy đường đường Bổ Xứ Tôn (Bổ Xứ Phật)”.

Cổ đức nói “Xứ xứ đều là Từ Thị [Di Lặc]. Cửa cửa đều có Thiện Tài”. Đây tức là : tất cả thế gian, mỗi mỗi sự vật đều là Bồ Đề Diệu Minh Nguyên Tâm. Ở đó mà biết được thì tự biết cái Thường Trụ Bất Diệt, mà tin hiểu mỗi mỗi bọt nước là toàn thể đại dương. Không thấy ở đâu có tướng khởi diệt, nên nói “Khởi diệt chẳng màng”.

Vua Thuận Tông nhà Đường hỏi Tổ Phật Quang Mãn: “Phật từ đâu mà đến, tịch diệt hướng về đâu mà lui? Đã nói thường trụ thế, thì nay Phật tại chốn nào?”

Tổ Mãn đáp: “Phật từ cái Vô Vi đi lại, tịch diệt hướng về cái Vô Vi lui về. Pháp Thân đồng hư không, thường trụ nơi Vô Tâm. Có niệm cũng là Vô Niệm, có trụ cũng là Vô Trụ. Đến, vì chúng sanh mà đến; đi vì chúng sanh mà đi. Biển Chân Như thanh tịnh, thể thường trụ vắng lặng như nhiên. Kẻ trí khéo tư duy, chớ sanh lòng lo nghĩ”.

Vua lại hỏi: “Phật hướng về cung vua mà sanh, diệt hướng về Song Lâm mà tịch, trụ thế bốn mươi chín năm, lại nói chẳng có pháp nào để thuyết. Núi, sông cùng biển lớn, trời đất cho đến trời trăng, đến thời đều diệt tận, ai nói được là không sống chết? Lòng nghi dường ấy, xin trí giả khéo phân biệt cho”.

Ngài đáp: “Thể Phật vốn Vô Vi, mê tình vọng phân biệt. Pháp Thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt. Có duyên, ấy là Phật xuất thế. Không duyên, ấy là Phật nhập diệt. Chốn chốn giáo hóa chúng sanh, cũng như trăng dưới nước. Chẳng phải Thường cũng chẳng phải Đoạn, chẳng phải Sanh cũng chẳng phải Diệt. Sanh cũng chẳng từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Rõ thấy chỗ Vô Tâm, tự nhiên không có pháp nào để nói”.

Vua rất đẹp lòng.

Tướng quốc Bùi Hưu ngày nọ vào chùa Khai Nguyên, thấy bức tranh trên vách, hỏi vị chủ chùa : “Cái ấy vẽ cái gì?”

Chủ chùa nói : “Vẽ cao tăng”.

Tướng Bùi nói : “Hình ảnh ở đó, cao tăng ở tại chỗ nào?”

Vị chủ chùa không đáp được.

Bùi Hưu nói : “Ở đây không có thiền sư sao?”

Chủ chùa nói : “Có một người”.

Bèn thỉnh Ngài Hoàng Bá đến gặp, và kể lại chuyện trước mà hỏi Ngài.

Tổ Bá gọi lớn : “Bùi Hưu!”

Ông Bùi ứng tiếng : “Dạ”.

Tổ Bá nói : “Ở tại chỗ nào?”

Bùi Hưu nghe xong có chỗ tỉnh ngộ.

Chỗ này đây có thể làm chứng cứ cho cái Thường Trụ Bất Diệt, nên chép vào.

Kinh:

Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn

Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có.

Thông rằng: Ngài Định Lâm nói: “Cái Thức Tinh là Nước. Nước chẳng dao động thì gọi là Trạm, lặng trong. Nói là Viên Trạm [Vẹn toàn lặng trong], ấy là thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới chẳng chia làm sáu (sáu Thức), tức là Toàn Lặng vậy. Gọi là Diệu Trạm, vì đó là cái Diệu Lực Bất Động tổng trì tất cả, tức là cái Lặng Trong Nhiệm Mầu vậy”.

Nói Tánh Giác Trạm Minh, là Giác hợp với Thức Tinh, như mặt trời hợp với Nước mà có tánh trong sáng. Nói “Trạm Tinh Viên Thường” tức là Thức Tinh Toàn Lặng vậy.

Đã dứt hết sanh diệt, nói là Thường. Nhưng cái Trạm này không phải là không còn chảy, chỉ vì chảy nhanh quá mà nhìn thấy dường như đứng yên đấy thôi. Kinh nói “Cái Thức động, cái Thấy lặng yên”, nghĩa là Thức có tánh động, gọi là nguồn gốc các Tưởng. Thức tự nó chẳng phải là Diệu Trạm Tổng Trì nên niệm niệm chịu huân tập, tạo ra dòng tập khí chảy mạnh, thành ra các Hành. Trong kinh nói các Hành ví dụ như dòng nước, là theo như đây vậy. Nhưng Thức mà so với các Hành thì giống như đứng lặng, nên sau có nói “Lặng yên nhập vào lặng yên”, như sóng diệt thì thành nước lặng yên, mà gọi là Hành Ấm hết tận. Ở trong xa, lặng trong mà sáng tỏ, nhập mà không có chỗ nhập, là lãnh vực của Thức Ấm. Vậy thì nói Trạm Nhập, cái Trong Lặng nhập vào ấy, là Thức Ấm. Trạm Nhập là Thức Ấm, thì Trạm là cái Minh Tri của Tánh Thức. Cái Minh Tri là Trí. Thức nằm trong giới hạn của Trí. Nên nói đến năm Ấm thì nói là “Lặng yên nhập vào Lặng yên”, nghĩa là đưa về trong giới hạn của Thức. Tánh Thức thì không gọi là Trạm Nhập, mà toàn khắp pháp giới, không có xuất, không có nhập.

Chỗ gọi là “Nội Nội Trạm Minh, Nhập Vô Sở Nhập” là cái Trạm (lặng trong) xuất ra thì làm Hành Ấm, cái Hành như nước chảy. Trạm Nhập là Thức, cái Thức diệt hết Hành Ấm, thế là “sâu lại càng sâu, lặng yên trong sáng” cho đến nguồn căn của các Tưởng rốt không có chỗ Nhập (Vô Sở Nhập).

Cái gọi là Thức Tinh tức là A Đà Na Thức. Còn chỗ gọi là làm dính che cái Trạm [Niêm Trạm], tức là làm dính che cái Thức Tinh này. Thức Tinh này như nước trong sạch, vốn không có tính dính, chỉ vì vọng khởi phân biệt, nên cùng với Sắc hiệp, cũng như nước hòa với đất thành ra sự dính. Nếu biết cái Thức Tinh ấy như nước trong sạch, vốn không có tính dính, thì không hợp với Sắc, thoát ra khỏi sự dán dính.

Trạm có Viên Trạm, Diệu Trạm, Giác Trạm và Tinh Trạm; có Trạm Nhập, có Niêm Trạm như các nghĩa nói ở trước, khác biệt rất ít, toàn là những cách ví dụ.

Ngài Mã Minh nói: “Vì y theo cái Bất Giác nên tâm động mà thành nghiệp. Tánh Giác thì bất động”. Phàm Tánh Giác là chẳng động, tức là cái “Diệu Trạm Tổng Trì” vậy. Động là nghiệp, trôi lăn mà thành các hành vậy. Gọi là Thủ Lăng Nghiêm Vương vì cái Định Thủ Lăng Nghiêm thì hàng Thập Địa thường trụ ở trong đó, nên Đức Phật là vua vậy.

Ngài Phó Đại Sĩ một hôm đang giảng kinh thì nhà vua đến. Đại chúng đều đứng dậy, chỉ có Ngài là ngồi yên chẳng động.

Cận thần báo rằng “Thánh Giá đến đây sao chẳng đứng lên?”

Ngài nói: “Pháp Địa nếu động, tất cả chẳng an!”

Như Đại Sĩ, quả là thật đắc Định Thủ Lăng Nghiêm vậy.

nhà sư hỏi thiền sư Khương Sơn Phương: “Thế nào là Bất Động Tôn?”

Tổ Phương nói : “Chỉ mặc một áo vải lót đi qua chợ”.

Nhà sư nói : “Kẻ học nhơn chưa hiểu”.

Tổ Phương nói : “Cưỡi lừa đạp phá Động Đình hồ”.

Nhà sư nói : “Thấu qua ba lớp sóng, ròng nghe một tiếng sấm”.

Tổ Phương nói : “Duỗi tay chẳng thấy bàn tay”.

Nhà sư : “Có cho phép kẻ học nhơn này tiến đến hay không?”

Tổ Phương nói : “Đạp trên đất mà rao bảo hư không”.

Nhà sư nói : “Dưới cửa sấm, đánh trống kêu gì?”

Tổ Phương nói : “Vào trong trái cầu thêu, chẳng dùng cờ ngũ sắc”.

Nhà sư nói : “Ba mươi năm sau, lời này sẽ thịnh hành”.

Tổ Phương bèn đánh.

Tổ Khương Sơn tự là người ở trong ấy, chẳng ngại theo dòng mà được Diệu. Nhà sư ấy nhận lầm phương hướng nên khó nói cùng nhau.

Kinh :

Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp,

Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân.

Thông rằng : Ức kiếp thì còn có số để chỉ, còn a tăng kỳ là ba vô số kiếp. Từ vô thủy đến nay mê cái Chân mà nhận lấy Vọng, đều là cái thấy điên đảo. Nay đem Vọng về Chân, được cái Bản Tâm nhiệm mầu, thường trụ, bất diệt. Như ở trước nói Như Lai Tạng, tức là Pháp Thân vậy.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá : “Kinh dạy rằng: “Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp. Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”, là như thế nào?”

Tổ Bá nói : “Nếu lấy sự tu hành trong ba vô số kiếp để có chỗ chứng đắc, thì hết hằng hà sa số kiếp cũng chẳng được. Còn nếu trong một sát na mà được Pháp Thân, liền ngay thấy Tánh vậy. Đó cũng là chỗ nói rốt ráo của Tam Thừa. Vì sao thế? Vì, thấy có Pháp Thân để đắc, tức thuộc về giáo pháp bất liễu nghĩa”.

Tổ Hoàng Bá xuất lời, nhả khí thật là căn khí Đại Thừa.

Ông Anan đã được Pháp Thân sao lại còn nói “Mong được xét trừ lầm vi tế?” Vì ông còn thấy có Pháp Thân để được vậy.

Thượng Tọa Thái Nguyên Phu ban đầu giảng kinh Niết Bàn ở chùa Quang Hiếu tại Dương Châu. Có một thiền giả vì trời mưa tuyết nhân đó đến nghe kinh. Đến chỗ “Ba cái Nhân của Phật Tánh, ba cái Đức của Pháp Thân”, vị Thượng Tọa đang giảng rộng về diệu lý của Pháp Thân, thiền giả bật cười.

Giảng xong, Thượng Tọa mời thiền giả uống trà, rồi nói : “Chí tôi hẹp cạn, nên y theo văn mà giải nghĩa, bỗng nhờ gặp tiếng cười, xin được nghe chỉ dạy”.

Thiền giả nói : “Quả là tôi cười vì Tòa Chủ không biết Pháp Thân”.

Thầy Phu nói : “Giảng thuyết như thế, chỗ nào chẳng được đúng?”

Đáp : “Xin Tòa Chủ nói lại một lần nữa!”

Thầy Phu nói : “Cái Lý của Pháp Thân là giống như Thái Hư, dọc suốt ba thời, ngang khắp mười phương, điều hòa Bát Cực, bao gồm Âm Dương, tùy duyên cảm ứng, không đâu chẳng khắp”.

Thiền giả nói : “Tôi không nói Tòa Chủ giảng không đúng. Nhưng ấy là chỉ mới nói được chút ít cái lượng của Pháp Thân, mà quả thật chưa biết Pháp Thân ở đâu”.

Thầy Phu nói : “Đã như thế, xin thiền đức vì tôi mà nói”.

Thiền giả : “Tòa Chủ có tin không ?”

Thầy Phu nói : “Đâu dám chẳng tin”.

Thiền giả nói : “Nếu như thế thì Tòa Chủ tạm ngừng giảng vài ngày, ở trong tịnh thất an nhiên dứt nghỉ, thâu tâm nhiếp niệm, thiện ác các duyên một phen buông bỏ hết”.

Thầy Phu theo đúng lời dạy, từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng mõ, hốt nhiên khế ngộ. Bèn chạy đến gõ cửa.

Thiền giả hỏi : “Ai đó?”

Thầy Phu đáp : “Dạ, tôi”.

Thiền giả la rằng : “Dạy ông gìn giữ đại giáo, thay Phật thuyết pháp sao nửa đêm lại say rượu nằm đường!”

Thầy Phu nói : “Thiền đức tự đến giảng kinh, đem cái lỗ mũi cha sanh mẹ đẻ của tôi ra mà vặn. Từ nay trở đi, chẳng dám lầm lỗi như vậy nữa”.

Thiền giả nói : “Đi đi, ngày sau gặp nhau”.

Như thầy Phu thật là “Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”.

nhà sư hỏi Hòa Thượng Lợi Sơn : “Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân, xin thầy chỉ thẳng”.

Tổ Sơn nói : “Con nối nghiệp cha”.

Hỏi : “Làm sao lãnh hội ?”

Tổ Sơn nói : “Chê bỏ thì chẳng có lành (từ)”.

Hỏi : “Như thế thì đại chúng đã nhờ được rồi ?”

Tổ Sơn nói : “Đại chúng hãy để đó, thế nào là Pháp Thân?”

Nhà sư không đáp được.

Tổ Sơn nói : “Ông hỏi, ta nói cho”.

Nhà sư nói : “Thế nào là Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói : “Hoa không, bóng nắng [“Không hoa, dương diệm”]”.

Thử nói xem chỗ nói Pháp Thân của Ngài Lợi Sơn so với Ông Anan xa gần thế nào?

Kinh :

Nguyện nay đắc quả, thành Bảo Vương,

Về độ như thế, hằng sa chúng,

Thông rằng : “Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”, thì Tín Vị là đúng mà Nhân Vị thì chưa phải. Cho nên, Hạnh tròn Quả mãn, thật chứng Chân Trí, như ngọc lưu ly thanh tịnh, ngậm chứa mặt trăng báu ở trong, mới đắc thành Bảo Vương. Lúc ấy, nhìn khắp tất cả chúng sanh đều có đức tướng Trí Huệ Như Lai, ta đều mỗi mỗi độ hết; chúng sanh vô tận, nguyện này vô tận, từ bi tròn đầy, trong ấy chẳng còn cái ta nữa. Thế mới là Phật, Pháp, Tăng, ba Thể quý báu, là cầu bến của chúng sanh vậy.

Ngài Động Sơnban đầu ra mắt Tổ Vân Môn.

Tổ hỏi : “Mới rời chốn nào?”

Đáp : “Tra Độ”.

Tổ Môn nói : “Nhập hạ ở đâu?”

Đáp : “Chùa Báo Từ ở Hồ Nam”.

Tổ Môn nói : “Rời chỗ đó khi nào?”

Đáp : “Ngày Hai Mươi Lăm, tháng Tám”.

Tổ Môn nói : “Tha cho ông ba mươi gậy”.

Sáng hôm sau, Ngài Động Sơn lại đến, hỏi : “Hôm qua nhờ Hòa Thượng tha cho ba mươi gậy, không rõ có lỗi gì?”

Tổ Môn nói : “Đồ túi cơm! Giang Tây, Hồ Nam bèn thế ấy!”

Ngài Động Sơn ngay nơi lời nói đại ngộ, bèn nói: “Từ nay về sau hướng về chốn bặt không người, không khói, không giữ một hột cơm, không trồng một cọng rau, mà tiếp đãi hết ráo mười phương qua lại. Vì họ mà nhổ đinh tháo chốt, lột bỏ cái mũ thoa dầu, cởi ra cái áo lót hôi thúi, dạy y vĩnh viễn làm ông thầy tu vô sự, há chẳng khoái sao?”

Tổ Môn nói: “Thân ông chỉ lớn bằng trái dừa, sao há miệng lớn thế!”

Ngài Động Sơn bèn lễ bái.

Kinh :

Nguyện đem toàn thể thâm tâm này,

Phụng sự cõi nước nhiều như bụi,

Thế mới gọi là báo Phật Ân,

Thông rằng: Hai chữ “thâm tâm” này có cái mùi vị mà hạng thiển cận không thể đo lường nổi. Cõi nước nhiều như bụi, không có bến bờ, Trí Bi vô lượng, cùng với Phật đồng Tâm Từ, mới gọi là báo ơn vậy.

Ngài Lâm Tế từ giã Tổ Hoàng Bá.

Tổ hỏi : “Đi đến chốn nào?”

Ngài Lâm Tế đáp : “Không phải là Hà Nam, thì là Hà Bắc!”

Tổ Bá liền đánh. Ngài chụp lại rồi thoi một thoi.

Tổ Bá cười lớn, gọi thị giả: “Đem cây thiền bản trên bàn thờ của Tiên Sư Bá Trượng lại đây”.

Ngài Lâm Tế nói : “Thị giả, đem lửa lại đây!”

Tổ Bá nói : “Tuy nhiên như thế, ông hãy đem đi, về sau rồi ngồi trên đầu lưỡi của thiên hạ”.

Sau này, Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn: “Lâm Tế há chẳng cô phụ Hoàng Bá đấy ư ?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói : “Không đâu”.

Tổ Quy nói : “Con lại còn cho làm sao?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói : “Biết ơn mới biết trả ơn”.

Tổ Quy nói : “Xưa kia cổ nhơn có chuyện tương tự như thế không?”

Ngài Ngưỡng nói : “Có chứ, nhưng lâu xa quá nên không muốn nêu ra”.

Tổ nói : “Dầu như thế, ta không biết, con hãy nêu ra đi”.

Ngài nói : “Như ở hội Lăng Nghiêm, Anan tán thán Phật rằng: “Nguyện đem toàn thể thâm tâm này, phụng sự cõi nước nhiều như bụi. Thế mới gọi là báo Phật Ân”. Đó chẳng phải là việc báo ơn sao?”

Tổ Quy nói : “Thế đấy, thế đấy! Chỗ Thấy ngang Thầy, thì giảm một nửa Đức của Thầy. Chỗ Thấy hơn Thầy mới nên truyền thọ”.

Lại Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn : “Sau này Lâm Tế như thế nào?”

Ngài Ngưỡng Sơn đáp : “Khoảng giữa đất Ngô, đất Việt có một người, gặp gió lớn thì ngừng lại”.

Tổ Quy nói : “Vậy là thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói : “Đem thâm tâm này hiến trần sát. Đó mới gọi là báo Phật Ân !”

Về sau, Ngài Phong Huyệt Chiểu đắc pháp với Ngài Thủ Sơn Niệm. Người ta cho đó là Ngưỡng Sơn trở lại.

Như Tổ Ngưỡng Sơn quả là có thâm tâm, thế nào lường được ư? Thế nào lường được ư?

Kinh :

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho,

Ngũ trược ác thế, thề vào trước,

Thông rằng: Năm Ấm chưa Không, thì Năm Trược khó phá, làm sao độ hết thảy khổ ách? Chỉ có bậc đắc quả, đã chứng pháp xuất thế gian nên chẳng ngại “Thõng tay vào chợ”, lấy Giác mà giác ngộ cho người. Chỗ nói “Đem thâm tâm này hiến trần sát”, tất trước dâng cho đời ác Năm Trược vậy. Cái Nghiệp của Ông Anan là cái Nguyện này. Ở quốc độ này, có Ngài Phó Đại Sĩ đủ sức đảm đương việc đó.

Đại Sĩ tên là Hấp, năm mười sáu tuổi cưới cô gái Diệu Quang nhà Lưu Thị, sanh hai con tên là Phổ Kiến và Phổ Thành. Năm hai mươi bốn tuổi bán vợ con mà làm hội cúng thí các loài dưới nước, trên cạn. Rảnh rỗi thì cùng người trong làng ngăn bờ bắt cá. Bắt được, nhận giỏ cá xuống sông, rồi chú nguyện cho: “Đi thì thả, ở thì giữ”. Ai cũng cho là khùng dại.

Gặp vị Đầu Đà người Ấn là Tăng Tung. Vị này nói: “Ta cùng ông đã phát nguyện ở chỗ Phật Tỳ Bà Thi. Nay y bát vẫn còn ở cung trời Đâu Suất, ngày nào ông trở về?”. Rồi bảo Ngài ra nơi nước nhìn bóng, thì thấy hào quang và lọng báu.

Ngài cười mà nói : “Nơi lò rèn còn nhiều sắt vụn, nơi cửa thầy thuốc có lắm bệnh nhân. Cứu đời là cần gấp, sao mà nghĩ đến cái vui kia?”

Vị Đầu Đà chỉ lên ngọn Tùng Sơn mà nói : “Chỗ ấy dừng ở được”.

Đại Sĩ tự mình cày ruộng ở đó. Có người trộm đậu, lúa, dưa, trái Ngài cho luôn giỏ để đựng.

Năm thứ hai đời Thiên Gia thị tịch, cảm ứngbảy vị Phật cùng theo đưa, đức Thích Ca dẫn đầu, cuối là Ngài Duy Ma Cật. Đức Thích Ca nói mấy lời : “Làm Bổ Xứ cho Ta”.

Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh thành Phật, Chánh Pháp Nhãn Tạng từ Đức Ca Diếp, Đức Anan truyền đến Tổ Đạt Ma là hai mươi tám đời. Cõi này tuy có kinh điển, nhưng chưa được nghe cái Tông Phong tối thượng. Thế mà Tổ Đạt Ma chưa tới, Ngài Đại Sĩ đã sanh, thế không phải là cái minh chứng cho việc Vào trước hay sao?

Kinh :

Còn một chúng sanh chưa thành Phật,

Rốt chẳng nơi kia nhận Niết Bàn,

Thông rằng : Vô lượng Chư Phật đời quá khứ độ thoát vô lượng chúng sanh. Đâu phải ai ai cũng thành Phật rồi, mà đã nhập Niết Bàn? Kinh Kim Cang nói: “Ta đều khiến nhập Niết Bàn Vô Dưdiệt độ, kỳ thật khôngchúng sanh được diệt độ”. Đến cảnh giới này thì không thấy có Phật để thành, có chúng sanh để độ, cũng không có Niết Bàn để nhập, mới là Chánh Kiến.

Có vị tăng hỏi Ngài Trung quốc sư : “Cái gì là Phật Tâm?”

Quốc sư nói : “Tường vách gạch ngói chính là đó”.

Tăng hỏi : “Rất trái với kinh vậy. Kinh Niết Bàn nói “Lìa ngoài vật vô tình tường vách, nên gọi là Phật Tánh”. Nay nói đó là Phật Tâm, chưa rõ Tâm và Tánh là khác hay chẳng khác?”

Ngài đáp : “Mê thì khác, ngộ tức chẳng khác”.

Tăng nói : “Kinh nói: Phật Tánh là thường, tâm là vô thường, nay nói chẳng khác nhau, là sao vậy?”

Ngài đáp : “Ông chỉ y vào lời nói, mà chẳng y vào nghĩa. Ví như tháng lạnh, nước kết thành băng. Đến khi trời ấm, băng tan thành nước. Khi chúng sanh mê, thì kết Tánh thành cái tâm. Khi chúng sanh ngộ, rã tan cái tâm thành Tánh. Nếu chấp rằng vô tình không có Phật Tánh, thì rốt ráo chẳng nói được Tam Giới Duy Tâm. Rõ ràng ông tự trái với kinh, ta nào có trái”.

Tăng nói : “Trong kinh giáo chỉ thấy nói hữu tình thành Phật, chẳng thấy có vô tình được thọ ký. Vả lại, ngàn Phật đời Hiền Kiếp có ai là Phật vô tình đâu?”

Ngài nói : “Như Hoàng Thái Tử khi chưa lên ngôi thì chỉ có một thân. Lên ngôi rồi, toàn quốc độ đều thuộc về vua, há có quốc độ riêng nhận ngôi vị ư? Nay khi chỉ có hữu tình được thọ ký làm Phật, thì mười phương quốc độ đều là thân Phật Tỳ Lô Giá Na, há lại có vô tình được thọ ký ư?”

Tăng nói : “Tất cả chúng sanh đều ở trên thân Phật, ỉa đái dơ lấm thân Phật, xoi đục dày đạp thân Phật, há chẳng có tội sao?”

Ngài nói : “Toàn thể chúng sanh là Phật thì còn ai làm tội?”

Tăng hỏi : “Kinh nói : Thân Phật không quái ngại, nay lấy vật hữu vi chướng ngại mà làm thân Phật, thế chẳng trái với Thánh chỉ ư ?”

Ngài nói : “Kinh Đại Phẩm nói : Không thể lìa hữu vi mà nói vô vi. Ông có tin Sắc là Không chăng?”

Tăng nói : “Lời chân thật của Phật sao dám chẳng tin”.

Ngài nói : “Sắc đã là Không, sao còn quái ngại?”

Tăng nói : “Chúng sanh vốn đồng Phật Tánh, thì chỉ cần một vị Phật tu hành, khi ấy hết thảy chúng sanh đều giải thoát. Nay đã không thế, thì nghĩa đồng ở đâu?”

Ngài nói : “Ông chẳng thấy Lục Tướng nghĩa Hoa Nghiêm nói rằng: trong cái Đồng có cái Khác, trong cái Khác có cái Đồng. Tướng Thành, Tướng Hoại, tướng Tổng, tướng Biệt mỗi mỗi đều như thế. Chúng sanh cùng Phật, tuy đồng một Tánh mà chẳng trở ngại mỗi mỗi tự tu tự đắc. Chưa từng thấy người ăn mà mình no. Lấy bọt nước và biển làm thí dụ. Một bọt nước đã tan mất thì toàn thể vẫn vốn là biển cả. Chưa hề thấy một bọt nước tan mà tất cả bọt đều tan. Nên trong cái Tánh ấy đâu có ngại gì mỗi người tự tu, mỗi người tự đắc”.

Đã ngộ khắp hết thảy đều là nước, thì có bọt nào mà không là nước? Chúng sanh chẳng phải là Phật đấy sao? Nếu thấy tất cả chúng sanh là Phật, thì bèn ở trong Niết Bàn.

Kinh :

Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi,

Mong xét trừ cho lầm vi tế,

Thông rằng: Đại Hùng [Hùng là con trống], vì bậc Thập Địa bên dưới là Thư, con mái. Đại Lựcvượt quá Ngũ Lực. Cho sự vui là Từ. Cứu khỏi khổ gọi là Bi. Muốn khiến cho cái tâm kia thông suốt mới gọi được là Tự Tánh hiện bày, nên Anan hy vọng Thế Tôn xét trừ cho mê lầm vi tế. Đã được Pháp Thân, sao lại còn điều lầm?

Tổ Vân Môn nói : “Được ngay sự chạm mắt không vướng ngại, thấu được Danh Thân, Cú Thân tất cả các pháp đều Không, núi sông đất đai là Danh Thân, cũng là bất khả đắc. Gọi đó là Biển Tánh Tam Muội sẵn đủ, như biển không sóng gió. Được ngay sự quên thấy biết nơi cái Giác, Giác là Phật Tánh đó vậy. Gọi là người Vô Sự, nhưng cũng cần biết có một khiếu (lỗ) hướng thượng!”

Tổ Thiên Đồng nêu ra : “Khách, chủ không hòa, cả hai đều có lỗi. Mỗi bên đều cho hai mươi gậy. Còn một khiếu hướng thượng thì làm sao? Tê giác nhân xem trăng mà sừng sanh vằn. Voi bị sấm hoảng kinh mà hoa in vào ngà”.

Ngày khác, Tổ Vân Môn lại nói : “Ánh sáng không thấu thoát do có hai loại bệnh. Một là tất cả chỗ không sáng, trước mặt có vật. Hai là thấu suốt được tất cả pháp là Không, mà còn có cái mơ hồ tương tự như vật, đó cũng là ánh sáng không thấu thoát. Pháp Thân cũng có hai loại bệnh. Một là đến được Pháp Thân, nhưng vì pháp chấp chưa hết, cái Thấy của mình dường như còn, mà ngồi một bên Pháp Thân. Hai là tuy đã thấu được Pháp Thân mà bỏ đi chẳng được, kiểm điểm kỹ càng trở lại, có chút khí tức gì cũng là bệnh”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Um tùm muôn tượng khá chênh vênh

Thấu thoát không đâu ngại mắt mình

Quét sạch môn đình ai đủ sức?

Núp trong lồng ngực: tự thành Tình

Thuyền ngang bờ lục, màu thu biếc

Vào đám bông lau, tuyết sáng soi

Xâu sợi ông chài ôm đến chợ

Êm êm thuyền lá mặc buông trôi”.

Tổ Càn Phong nói: “Pháp Thân có ba thứ bệnh, hai thứ ánh sáng, sao Vân Môn lại thiếu đi một thứ?” Các nơi đều nói: “Chưa đến thì chạy quàng. Đến rồi thì bám riết. Thấu thoát không chỗ nương. Đó là ba. Thế là trước thiếu một thứ”. Phật Nhãn nói: “Cỡi lừa tìm lừa, là một. Cỡi lừa rồi chẳng chịu xuống, đó là hai”. Thế là sau còn thiếu một thứ”.

Các tôn túc bàn luận ba thứ bệnh của Pháp Thân, vi tế đến như thế. Đâu có liên quan gì đến kinh giáo ư?

Kinh:

Khiến tôi sớm lên Vô Thượng Giác,

Nơi mười phương cõi ngồi Đạo Tràng,

Thông rằng: Vô Thượng Giác ấy tức là một khiếu hướng thượng vậy. So với ở trước “Được Pháp Thân và đắc quả”, thì có sai khác ư ? Không sai khác ư ? Chỗ có thể nói là Phật Quả thì có bảy; Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật Tánh, A Ma La Thức, Không Như Lai TạngĐại Viên Cảnh Trí.

Ngộ Bồ Đề, thấy Phật Tánh có thể nói là được Pháp Thân. Sau khi thấy Tánh, xét trừ mê lầm vi tế khiến sanh diệt, diệt sanh đều vắng lặng, cùng hợp với Niết Bàn, Chân Như. Trong trắng thuần sạch, hợp cùng A Ma La Thức. Rỗng suốt tròn soi, hợp cùng Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí. Như thế mới có thể gọi là đắc quả, nhưng chưa có thể gọi là lên Vô Thượng Giác.

Xem một chữ Sớm (Tảo [Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác]) là pháp môn Đốn Ngộ, một hiểu được thì trăm thành ra ngay, không nhờ tu hành thứ bậc, chẳng kể phàm phu hay Thập Địa, ai ai cũng có thể lên.

Đức Phật nói rằng: “Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm mật phó cho Ông Ca Diếp”. Nào có dấu vết tăm hơi gì khá được ư? Đây tức là Vô Thượng Giác vậy. Một lần lên cái Giác này là đến địa vị Phật, bèn ở mười phương cõi ngồi tòa sen báu, vì chúng sanh thuyết pháp. Long Nữ còn như vậy, huống là bực đệ tử Thanh Văn ư?

Ngài Dược Sơn ở với Đức Mã Tổ ba năm.

Đức Mã Tổ hỏi : “Gần đây chỗ thấy của ông ra sao?”

Ngài Sơn nói : “Da dẻ rơi rụng sạch, chỉ còn một cái Chơn Thật”.

Đức Mã Tổ nói : “Chỗ được của ông khá gọi là hợp với Tâm Thể, trải khắp tay chân. Đã như thế thì đem ba miếng cật tre bó giữ da bụng, tùy chỗ mà trụ sơn [Dạy chúng] đi”.

Ngài thưa : “Tôi là người nào mà dám nói chuyện trụ sơn?”

Đức Mã Tổ nói : “Chẳng phải thế đâu. Chưa hề có đi mãi mà không đứng lại. Chưa hề có dừng mãi mà không đi. Muốn ích mà không có chỗ ích, muốn làm mà không có chỗ làm, nên làm thuyền bè, không nên dừng lâu ở đây”.

Ngài Đức Sơn đến Tổ Quy Sơn, kẹp một cái áo lót lên nhà giảng, từ Tây sang Đông, từ Đông sang Tây quay nhìn Tổ Quy Sơn mà nói: “Có chăng?”

Tổ Quy Sơn cứ ngồi, không để ý đến.

Ngài Đức Sơn nói: “Không, không!”

Rồi bỏ đi ra.

(Ngài Tuyết Đậu chú rằng: “Khám phá xong rồi!”)

Ngài Đức Sơn ra đến cửa, bèn nói: “Tuy là như thế, cũng chẳng được buông tuồng”.

Rồi đầy đủ oai nghi, trở vào tương kiến. Vừa qua khỏi cửa, đưa lên cái tọa cụ, nói: “Hòa Thượng!”

Tổ Quy Sơn định lấy cây phất tử. Ngài bèn hét, phất tay áo mà đi ra.

(Ngài Tuyết Đậu chú thêm: “Khám phá xong rồi!”)

Tổ Quy Sơn đến tối hỏi Thủ Tọa: “Cái ông mới đến ngày hôm nay có đây không?”

Thủ Tọa nói : “Ngay khi ra khỏi nhà giảng thì mang dép cỏ đi luôn rồi”.

Tổ Quy Sơn nói : “Ông ấy về sau lên đỉnh núi đơn độc chót vót kết thảo am, la Phật mắng Tổ đó”.

Ngài Tuyết Đậu chú rằng : “Trên tuyết lại thêm sương!”

Rồi tụng rằng :

“Một khám phá, hai khám phá!

Trên tuyết thêm sương, thêm hiểm họa

Tướng quân bay ngựa vào triều giặc

Về được hoàn toàn có mấy ai?

Mau chạy qua, chẳng bỏ qua!

Trên đỉnh cô phong, ngồi am cỏ

Ối!”.

Thêm một chữ “Ối” này là ngón nghề kỳ đặc của Ngài Tuyết Đậu. Chẳng lên Vô Thượng Giác khó mà hiểu nổi.

Kinh :

Tánh hư không còn có thể tiêu,

Tâm Kim Cang không hề động chuyển,

Thông rằng: Thuấn Nhã Đa [Dịch nghiã là Không Tánh, cái thật thể của hư không] (Sũnyata) là Hư Không; Thước Ca Ra [Theo Tạp Danh, Cakravãda (Thước Ca Ra) Là tên núi Thiết Vi Sơn. Theo Tạp Ngữ, Cakra (Thước Kiết), dịch là Kim Cang, luân, tinh tấn. Trường Thủy Sớ: Thước Ca Ra nói rằng kiên cố chẳng hư nát vậy](Cakravãda) là kiên cố như Kim Cang. Câu này xưa nói “Tánh Hư Không vô thể còn có thể tiêu vong. Tâm kiên cố của tôi rốt ráo không động chuyển”. Tựa như Ông Anan phát nguyện như vậy. Đã nguyện “Đắc quả thành Bảo Vương”, sao lại có nguyện này? Đã “Lên Vô Thượng Giác tọa Đạo Tràng”, sao lại khăng khăng “Không động chuyển”?

Câu này vốn chẳng có lầm, phải cần biết cái yếu chỉ quy về. Đó là “Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn. Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có”, nói ở trước.

Sao nói là Diệu Trạm ? Vì, tuy Lặng Trong Bất Động, mà chẳng bám giữ hư không, nên mới gọi là Diệu. Nếu trụ bám Hư Không mà cho là bất động, thì rốt cuộc chẳng phải “Cả thảy rốt ráo kiên cố”. Ý Ông Anan là : dù mười phương ngồi Đạo Tràng, cũng không trụ bám Pháp Thân Hư Không, nên Chánh Pháp Nhãn Tạng rốt ráo kiên cố. Cũng như nói “Thủ Lăng Nghiêm Vương, Diệu Trạm Bất Động” vậy. Đầu đuôi ứng nhau, lý thú còn lâu dài mãi.

Cổ đức nói : “Dài là Pháp Thân dài, ngắn là Pháp Thân ngắn”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Thử nói xem: Thuấn Nhã Đa sao lại gọi đó là Pháp Thân ?”

Ngài im lặng một lúc rồi nói: “Có hiểu không? Không thể nối dài con le le mà cắt chân con hạc, phá hòn núi để lấp cái lỗ hang!”

Lời nói này chính là vì sợ người ta hướng về trong hư không mà đóng chết ở trong đó.

Tổ Sơ Sơn thượng đường, nói: “Bệnh tăng rõ hết trước năm (niên tiền), thì hiểu được chuyện bên phía Pháp Thân. Rõ hết sau năm (niên hậu) thì hiểu được chuyện hướng thượng của Pháp Thân”.

Ngài Vân Môn bước ra, hỏi: “Thế nào là chuyện bên phía Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói: “Cây Xuân [Cây Xuân là một loại cây sống đến mấy ngàn năm] khô”.

Hỏi : “Thế nào là chuyện hướng thượng của Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói : “Chẳng phải cây Xuân khô!”

Hỏi : “Có cho phép tôi nói đạo lý không?”

Tổ Sơn nói : “Cho”.

Ngài Vân Môn nói: “Cây Xuân khô há chẳng phải tỏ rõ cái chuyện bên phía Pháp Thân sao?”

Tổ Sơn nói: “Đúng vậy”.

Ngài Vân Môn nói: “Chẳng phải cây Xuân khô” há chẳng phải tỏ rõ chỗ hướng thượng của Pháp Thân sao?”

Tổ Sơn nói : “Đúng vậy”.

Ngài Vân Môn nói : “Như thế Pháp Thân bao trùm tất cả phải không?”

Tổ Sơn nói : “Pháp Thân toàn khắp, sao chẳng trùm hết?”

Ngài Vân Môn chỉ cái tịnh bình, nói : “Như thế cái tịnh bình có bao trùm Pháp Thân không?”

Tổ Sơn nói : “Xà Lê chớ hướng về một bên tịnh bình tìm kiếm!”

Ngài Vân Môn bèn lễ bái.

Rõ ràng chỉ ra “Chẳng phải cây Xuân khô” là một con đường sống. Chỉ là cái “Chẳng phải cây Xuân khô” này, chánh thật hợp với ý chỉ “Tánh hư không còn có thể tiêu” vậy.

Ngài Tào Sơn ban đầu ra mắt Tổ Động Sơn.

Tổ Động Sơn nói : “Thầy Xà Lê tên gì ?”

Ngài đáp : “Bổn Tịch”.

Tổ Động Sơn nói : “Hình dạng gì ?”

Ngài đáp : “Chẳng gọi là Bổn Tịch”.

Tổ Động Sơn nói : “Rất là pháp khí vậy”.

Từ đó, được nhập thất, trải qua mấy năm mới xin đi. Tổ Động Sơn mới mật truyền cho “Bảo Cảnh Tam Muội”, lại hỏi : “Ông hướng chỗ nào đi?”

Ngài Tào Sơn đáp : “Đi vào chỗ chẳng hề thay đổi”.

Tổ nói : “Chỗ chẳng hề thay đổi lại có đi ư ?”

Ngài nói : “Đi cũng chẳng thay đổi!”

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Nhà nhà cửa đóng, ánh trăng soi

Chốn chốn oanh kêu dương liễu rung

Nếu bảo tung hoành không đổi khác

Cũng như quăng kiếm chém hư không”.

Tổ Tào Sơn, Chánh Thiên kiêm đới [Sự Lý viên dung], có thể nói là được con mắt kim cang. Như định nhìn nhận chỗ không thay đổi, dường vẫn còn cây kiếm. Ôi, vi tế, nhỉ!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10395)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12355)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11659)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13017)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17453)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53074)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35497)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10684)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19249)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12415)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14389)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16098)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13139)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11626)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18670)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12329)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15040)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15046)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11406)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17202)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20218)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15073)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13004)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11668)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18353)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant