Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Tứ Gia Hạnh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 18717)
06. Tứ Gia Hạnh

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

Mục 2: An Lập Các Thánh Vị


VI. TỨ GIA HẠNH

Kinh: “Anan, người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên: tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình, như ra mà chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Noãn Địa.

Thông rằng: Bốn mươi mốt tâm ở trên, từ Càn Huệ đến Mười Hồi Hướng lần hồi sửa trị, lần hồi điều phục, đào thải phàm tình, đã thành cùng cực thanh tịnh. Nhưng Thánh vị khó lên, Thánh quả khó chín muồi. Đến miếng đất này, Thần không thể xét đến, “Hóa chẳng thể giúp tăng trưởng. An nhiênthong dong, chờ cái tự nó đến mà thôi vậy.

Đức Thế Tôn nhiều kiếp tu hành, suốt thấu rõ ràng chỗ huyền vi, ở đây lại lập ra bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên. Giữa khoảng sắp thành tựu và chưa thành tựu, quả thực là có bốn địa vị này, chẳng phải là Phật nhãn thì ai mà biện biệt ra được?

Ở trước, nói “Giác bằng cái Giác của Phật”, ấy là ở trong tâm rõ ràng mà chưa thể dùng được. Đến đây thì “Lấy Phật Giác dùng làm tâm mình”, đưa lên xem ngắm mà chẳng ra, giống như dùi cây cho ra lửa mà cây chưa cháy, nên gọi là Noãn [Noãn: ấm] Địa. Lửa có ra thì cũng vô tâm, dùi lâu thì cây tự cháy. Giác mà dùng thì cũng vô ý, Định lâu thì Huệ tự hiện, trong khoảng ấy chẳng để cho sức người góp vào vậy.

Tổ Thúy Nham Chân thượng đường, nêu lên bài tụng của Tổ Long Nha rằng: “Học đạo như dùi lửa, thấy khói chưa thể ngừng, chờ đến Kim Tinh hiện, về nhà mới đến nơi!” Và bài tụng của Tổ Thần Đỉnh rằng: “Học Đạo như dùi lửa, thấy khói có thể dừng, chớ chờ Kim Tinh hiện, cháy cẳng lại cháy đầu!”

Tổ Chân nói: “Nếu luận Đốn thì Long Nha quả ở nửa đường! Nếu luận Tiệm thì Thần Đỉnh mới ngộ ít. Ở đây thì thế nào? Này các nhân giả, năm nay nhiều lá rụng, chỗ nào quét về nhà?”

Theo chỗ thấy của Ngài Thúy Nham, cháy chẳng hết thì hiện củi, dùng chẳng hết thì hiện lửa, thế dùng sự dùi làm chi? Tuy thế, phải là người xuất cách mới xong!

Kinh: “Lại lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Hình như nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.

Thông rằng: Chỗ thấy cùng Phật không khác, nhưng còn phải quý trọng hành vi cho tương xứng. Nếu đã có thể lấy cái Giác của Phật dùng làm tâm mình thì có thể lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Ở nơi hỗ tương đối đãi mà nói thì vì còn có cái thấy của Phật, của mình nên hình nhưng nương mà chẳng phải nương, là thấy có quy tắc của Phật. Hình như nương nơi Phật thì đó chỉ là quy tắc của mình. Nếu không có chỗ nương, đó là hành vi của Phật không vết tích. Nay có chút so nghĩ, tính toán, bởi vì lằn vết chưa mất. Giống như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại.

Cho là Nương thì thân ở hư không nên chẳng phải nương vậy. Cho là Chẳng phải nương thì chân còn dẫm trên đảnh nên chẳng phải là Không nương. Sắp vào chỗ Thần Hóa mà còn chút đầu lông chưa tiêu dung, nên hình như có ngăn ngại. Kinh Đại Bát Nhã cho sự chấp trước hư khôngPháp Thân gọi là Đỉnh Đọa, rơi nơi đỉnh, chính thật tương đương với chỗ này.

Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Như sao là cô đỉnh Diệu Phong?”

Tổ Châu nói: “Lão tăng không đáp câu ấy của ông”.

Hỏi: “Vì sao không đáp câu ấy?”

Tổ Châu nói: “Ta đáp cho ông, sợ rơi trên đất bằng”.

Ý vị thay! Rõ ràng đã đáp rồi vậy.

Về sau, hai Ngài Bửu Phước và Trường Khánh đang dạo núi.

Ngài Bửu Phước lấy tay chỉ, nói: “Chỉ trong ấy bèn là đỉnh Diệu Phong!”

Ngài Trường Khánh nói: “Đúng là như vậy thì đáng tiếc cho!”

nhà sư kể lại với Ngài Cảnh Thanh. Ngài Cảnh Thanh nói: “Nếu chẳng phải là bậc Tôn Công thì thấy sọ khô đầy đồng!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Diệu Phong cô đảnh cỏ dẫy đầy

Nêu được rõ ràng, phó chúc ai?

Chẳng phải tôn công phân đích xác

Sọ khô đầy đất, mấy ai hay!”.

Tôn Công Trường Khánh khá tiếc cho chính là sợ rớt trên đất bằng. Nếu rớt nơi đất bằng mà thương lượng thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số!

Lại như Tổ Động Sơn hỏi nhà sư: “Chỗ nào đến?”

Đáp: “Dạo núi đến”.

Tổ Sơn nói: “Có đến đỉnh chăng?”

Đáp: “Dạ có đến”.

Tổ Sơn nói: “Trên đỉnh có người không?”

Đáp: “Không người nào”.

Tổ Sơn : “Như vậy chắc chưa tới đỉnh”.

Đáp : “Nếu chưa tới đỉnh sao biết là không người?”

Tổ Sơn : “Sao chẳng ở (trụ) lại?”

Đáp : “Tôi chẳng từ chối ở, chỉ vì Tây Thiên có người chẳng chịu”.

Tổ Sơn nói : “Vậy mà lâu nay ta lại nghi gã ấy!”

Như nhà sư này, đến đỉnh chẳng trụ thì còn gì ngăn ngại? Tức là cái hoạn nạn Đỉnh Đọa còn không có, lo gì tai họa Đất Bằng ư?

Kinh: “Tâm, Phật cả hai đồng, khéo được Trung Đạo, giống như người biết nhẫn nhịn, chẳng phải ôm ấp, chẳng phải phát ra, gọi là Nhẫn Địa.

Thông rằng: Tâm mình và hành vi Phật, cả hai dấu vết đều dung thông, hòa thành một thể, không còn ngăn ngại. Đã không phải Tức Tâm tức Phật, cũng không phải Phi Tâm phi Phật, chỉ nói là “Chẳng phải vật”, đó chỗ gọi là Trung Đạo.

Ban đầu thì ngay chính giữa mà lần vào, cho đến khi Trung Đạo thuần chân. Thứ lớp Tín, Trụ, Hạnh, Hướng đến đây mới có thể khéo được Trung Đạo. Gọi là Khéo được thì chẳng phí mảy lông công lực, ấy là đắc cái Không-chỗ-đắc. Đã không chỗ đắc thì cũng không chỗ thuyết. Như người nhẫn nhịn, đã không ôm ấp lòng nghi mà cũng không nói ra, chỉ có im lặng ẩn chứa mà thôi, nên gọi là Nhẫn Địa.

Quan Long Đồ tên là Vương Tiêu, tự là Quan Phục, một hôm ở chùa Chiêu Giác, nghe tiếng bản ra thiền mà có tỉnh ngộ.

Bèn hỏi Tổ Nam Đường: “Tôi có cái chỗ-thấy, bỗng bị người hỏi, lại mở miệng chẳng được, chưa rõ lỗi ở đâu?”

Tổ Đường nói : “Lỗi tại có cái chỗ-thấy”.

Tổ hỏi lại : “Ông đến nhậm chức hồi nào?”

Ông đáp : “Dạ ngày mồng Bốn tháng Tám năm ngoái”.

Tổ lại hỏi : “Ông rời nhiệm sở khi nào?”

Đáp rằng : “Ngày Hai Mươi tháng trước”.

Tổ Đường nói : “Vậy tại sao nói là mở miệng chẳng được?”

Ông Tiêu bèn khế ngộ.

Ông Vương Long Đồ tương tự chứng Nhẫn Địa, nhờ vài câu của Tổ Nam Đường mà chỗ-thấy liền mất.

Nhưng cũng có trường hợp đã siêu quá Nhẫn Địa mà chưa thấu thoát. Như Ngài Ngũ Tổ Diễn được Ngài Phù Sơn Viễn chỉ đến ra mắt Tổ Bạch Vân Đoan. Ngài Ngũ Tổ Diễn đem chuyện nhà sư hỏi Tổ Nam Tuyền về ngọc ma-ni để xin bày dạy yếu nghĩa. Tổ Đoan liền quát nạt cho. Ngài Diễn lãnh ngộ, trình bài kệ Đầu Cơ rằng :

“Trước non một mảnh đất đai nhàn

Hầu Tổ chấp tay bạch hỏi han

Tự bán bao phen rồi mua lại

Vì thương tùng trúc giỡn gió trong”.

Tổ Đoan đặc biệt ấn khả, cho làm tri sự trong chùa. Chẳng bao lâu, Tổ Đoan đến nói rằng : “Có mấy vị thiền kháchLư Sơn tới, đều có chỗ ngộ nhập. Bảo y nói, cũng nói được có mối manh. Nêu nhân duyên hỏi y, cũng bày tỏ được. Bảo y hạ một câu chuyển ngữ, cũng buông ra được. Chỉ có điều là chưa ở trong đó”.

Ngài Diễn ở chỗ này phát đại nghi, tự suy nghĩ rằng: “Đã ngộ rồi thì cũng nói được, rõ cũng đã rõ, thế sao lại chưa ở trong đó?”

Bèn tham cứu lâu ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộ, lòng tiếc của báu trước kia một phen buông bỏ hết, chạy đi tìm Ngài Bạch Vân Đoan. Tổ Đoan dậm chân múa tay. Ngài Diễn cũng cười xòa một tiếng mà thôi.

Tổ Diễn về sau nói với người ta rằng: “Tôi nhờ đó mà ra khỏi một xác chết, liền rõ được cái việc chở gió trong”.

Thế nên biết, mảy tơ chưa hóa thì vẫn còn Lý Chướng. Bốn thứ Gia Hạnh diệu viên như thế, đâu chỉ có bốn mối ư?

Kinh: “Số lượng tiêu diệt, sự Mê, Giác và Trung Đạo cả hai đều không danh mục, ấy là Thế Đệ Nhất Địa.

Thông rằng: Tâm, Phật cả hai đồng, là đã quên đây, kia; khéo đắc Trung Đạo là đã lìa hai bên. Nhưng có hai cái đồng nhau, thế là còn tin tức trong đó. Đó là số lượng, đó là danh mục vậy. Số lượng là chỗ thế nhân có thể đo lường, danh mục là chỗ thế nhân có thể chỉ ra, tức là chẳng vượt khỏi thế gian.

Phật Thânvô vi, chẳng rơi vào số lượng. Tiêu diệt số lượng đo đếm đi thì chẳng có việc rơi vào vậy. Sao gọi là tiêu diệt? Cái gì có Đồng, có Khác, có Mê, có Giác, có Được, có Mất đều thuộc vào số lượng, đều có thể xếp thành danh mục. Hiện nay độc chỉ khéo đắc Trung Đạo, nên không thể cho đó là Mê, lại sắp cùng với chỗ sở đắc mà quên mất, nên không thể cho đó là Giác. Chẳng thể suy đoán, chẳng thể hình dung, chính là chỗ chân thực tiêu diệt mọi số lượng vậy.

Cái chỗ tình suy lượng của thế nhân có thể đến, là biết có Phật, biết có Đạo mà thôi. Nay nói: “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo”, thì chỗ nào đâu mà suy nghĩ dung thân? Cái chỗ mà danh mục của thế nhân có thể thấy đến là đồng như vậy, đắc như vậy mà thôi. Nay nói, “Đồng không chỗ đồng, đắc không chỗ đắc”, thì chỗ nào đâu để trộm thấy cái nhiệm mầu?”

Đến đây thì Nội Phàm đã hết, sắp vào Thánh vị. Chỉ có Thánh mới biết được Thánh, chẳng phải ý kiến người đời mà trộm thấy được, vì cao vượt cái cao của người đời, nên gọi là Thế Đế Đệ Nhất Địa. Nếu vào Thập Địa, đến tột Diệu Giác thì lại gọi là Xuất Thế Đệ Nhất Địa.

nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Trong ba Thân, Thân nào chẳng sa vào số lượng?”

Tổ Sơn nói: “Ta thường ở trong ấy không cách hở”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Chẳng nhập thế, chưa theo duyên

Kiếp bầu “Không Xứ” có gia truyền

Sông thu gió nhẹ, rau tần trắng

Bến cổ thuyền chiều một giải sương”.

Bài tụng này ở chỗ chẳng rơi vào số lượng lại càng thân thiết.

Thiền sư Đồng An Chí kế thừa Tổ Đồng An Phi. Khi sắp thị diệt, Tổ Phi thượng đường nói: “Trước Đa Tử tháp [Chỗ Phật phân nửa tòa ngồi với Tổ Ca Diếp] toàn con cháu tuấn tú, việc của năm vị trưởng lão tiền bối là thế nào?”

Nói ba lần, không ai đối đáp được.

Cuối cùng Ngài Đồng An Chí bước ra, nói: “Đêm sáng ngoài rèm bày trải vững, muôn dặm vui ca đạo thái bình”.

Tổ Phi nói : “Phải là cái tên lừa ấy mới được”.

Sau, khi trụ trì, có nhà sư hỏi Ngài: “Chỗ hai cơ chẳng đến, cử xướng thế nào?”

Tổ Chí nói: “Khắp nơi chẳng gặp, trong Huyền chẳng mất”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Mé kia bờ nọ khó tương phùng

Vô tư hai chữ cũng không trong

Vầng hồng Tây lặn ngoài kia núi

Luống lưu cô ảnh chiếu khe đông”.

Chỗ này thì Mê-Giác và Trung Đạo, cả hai đều không chỗ chỉ gọi, chính là chỗ hai cơ duyên chẳng đến nơi. Nhưng Ngài Đồng An Chí thì hai bên chẳng lập, Trung Đạo chẳng dừng, sắp Trung Đạo cũng chẳng ở. Thế mới là Chân Tông Vô Trước [Không dính mắc], trong tông môn là cao tột thứ nhất. Đâu phải chỉ là Thế Đệ Nhất Địa mà thôi sao?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26689)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28270)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29431)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33329)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21793)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30689)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31324)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37203)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32340)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27168)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20644)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22268)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24017)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22882)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23242)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30451)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30122)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23146)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21804)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28259)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19294)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20187)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30953)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41557)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32769)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19144)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34049)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23712)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25348)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27798)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25044)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23853)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58780)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23245)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20909)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28216)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28949)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19240)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24635)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21458)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23889)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28641)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29459)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17667)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31056)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25362)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18982)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20162)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23969)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19055)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20182)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20074)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24865)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19436)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22606)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61871)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31162)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22132)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant