Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Sáu: Thực hành chỉ quán

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10859)
Phần Sáu: Thực hành chỉ quán



PHẦN SÁU
THỰC HÀNH CHỈ QUÁN


Thực hành Chỉ Quán có hai cách:

Trong lúc tọa thiền
Theo duyên đối cảnh.

1. Thực hành Chỉ Quán trong lúc tọa thiền:

Mặc dầu trong bốn oai nghi đều có thể thực hành Chỉ Quán được, nhưng trong lúc tọa thiềnthuận lợi hơn cả. Cho nên ở đây chỉ nói riêng cách thực hành trong lúc tọa thiền.

Cách này, tóm tắt có Năm phương pháp:

Phương pháp thứ Nhất:

Thực hành Chỉ Quán để đối trị những thô phù loạn động trong lúc ban?â?u. Ng???i thực hành khi mới tọa thiền, thấy tâm thô loạn thì cần phải thực hành Chỉ để phá trừ, nếu phép Chỉ không pha? được thì nên thực hành phép Quán.

Thực hành phép Chỉ có ba thứ:

a)Buộc tâm vào một cảnh, như chuyên chú tâm vào đầu đỉnh mũi hay vào phía trong rốn. để cho tâm không tán loạn, như trong Kinh dạy: "Buộc tâm không phóng dật như dùng xiềng buộc khỉ".

b)A?p dụng Chỉ để chế phục tâm, nghĩa là khi tâm khởi lên thì liền chế phục, không cho buông lung tán loạn, như torng kinh dạy: "Tâm làm chủ năm Căn, vì thế cần phải chế phục Tâm". Hai thứ trước đây đều là sự tướng dễ hiểu, không cần phân tích.

c)Thực hành phép Thế chân chỉ, nghĩa là theo tâm nghĩ cái gì, đều biết các pháp do nhân duyên sanh, không có tự tánh, nên tâm không chấp trước. Tâm không chấp trước thì vọng niệm dừng nghi?, nên gọi là Chỉ. Hành giả trong lúc mới bắt đầu tọa thiền thường theo tâm nghĩ đến tất cả các pháp, niệm nệm không an trụ, tuy dùng phép Thế chân chỉ trên kia mà vọng niệm không dừng nghi? thì nên trở lại quán tâm: Tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại không dừng, tâm vị lai chưa đến, xét cùng trong ba đời, rõ ràng không nắm được cái gì là tâm. Không nắm được cái gì là tâm thì tất cả các pháp đều không tồn tại. Người tu hành tuy quán cái tâm khơng an trụ, thật không có gì, nhưng lại không phải từng sát na, từng sát na không nhận biết có niệm khởi lên.

Hành giả lại quán tâm niệm đó, do trong có sáu căn, ngoài có sáu trần, đối đãi v??i nhau nên có sáu thức sanh ra. Căn trần chưa đối đãi thì thức vốn không sanh. Quán sự khởi sanh như thế, quán sự hoại diệt như thế, thì biết sinh diệt chỉ là danh từ, chỉ là giả lập. Khi tâm sinh diệt đã diệt, bản tính tịch diệt hiện tiền rốt ráo không có gì, thì khế hợp với đạo lý không tịch, và cái tâm tự dừng nghỉ. Luận Khởi tín nói rằng: "Nếu tâm buông lung tán loạn thì phải nhiếp thu lại, làm cho an trụ nơi chánh niệm". Chánh niệm đó, tức là biết chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài và chính cái tâm đó cũng không tự tướng, niệm niệm dời đổi, không thể nắm được. Song người bắt đầu tu học, chưa dễ an trụ liền nơi chính niệm, nếu đè nén quá phần, bắt tâm an trụ thì dễ phát điên, do đó phải theo đúng chánh pháp tu tập lâu ngày thì mới an trụ đựơc, cũng như người học bắn, tập luyện lâu ngày bắn mới trúng đích.

Thực hành pháp Quán có hai thứ:

a)Quán để đối trị, như thực hành bất tịnh quán để đối trị lòng tham dục, thực hành quán từ tâm để đối trị lòng sân chành quán giới phân biệt để đối trị ngã chấp, thực hành quán sổ tức để đối trị tâm tán loạn.

b)Chánh quán, quán các pháp đều do nhân duyên giả dối sinh ra. Các pháp duyên sanh như huyễn, không có tự tánh, đó là thật

tướng. Rõ được nơi cảnh sở quán tất cả đều rỗng không, thì tâm năng quán không khởi lên, như trong Kinh có bài Kệ:

Các pháp không bền chắc,

Thường chỉ ở trong niệm;

Đã nhận hiểu chính không,

Thì không còn tưởng niệm.

Phương pháp thứ nhì:

Thực hành Chỉ Quán để đối trị bệnh trầm và phù của tâm. Hành giả trong lúc tọa thiền, tâm lại mờ tối, bế tắc không tỏ, hoặc muốn thiếp ngủ thì lúc bấy giờ nên áp dụng pháp quán để soi tỏ. Nếu trong lúc tọa thiền, tâm lại thô phù lay động không yên, thì nên áp dụng phép Chỉ để ngăn chận lại. Cốt yếu là hành giả cần phải biết bệnh và dùng thuốc đối trị cho dúng không nên dùng càng, trái với bệnh thì có hại.

Phương pháp thứ ba:

Theo phương tiện để thực hành Chỉ Quán. Hành giả trong lúc tọa thiền, tuy đã áp dụng quán đối trị bệnh trầm, nhưng tâm vẫn không yên lặng, sáng suốt và không có kết quả, thì nên thử áp dụng phép Chi?, nê?u th??c hành phép Chỉ mà thân tâm được yên lặng thì biết là cần phép Chỉ để đối trị bệnh. Nếu trong lúc tọa thiền, tuy đã áp dụng phép Chỉ đối trị bệnh phù động, nhưng tâm vẫn không an trụ và không có kết quả, thì nên thử thực hành phép Quán, nếu dùng phép Quán mà tâm được yên ổn thì biết là cần phép Quán, do đó phải dùng phép Quán để trị bệnh. Đó là lược nói tùy theo hoàn cảnháp dụng pháp môn Chỉ-Quán. Cốt yếu nên xét rõ cần pháp nào mà thân tâm được yên ổn thì theo đó mà áp dụng.

Phương pháp thứ tư:

Thực hành Chỉ Quán để đối trị những tâm niệm vi tế trong định. Hành giả trước đã dùng Chỉ Quán đối trị, phá trừ những thô loạn, thô loạn đã dừng nghỉ thì được nhập định, do định tâm vi tế nên cảm giác thân thể không tịch, chịu sự khoái lạc. Lúc đó, hoặc tâm quá mãnh lợi, có thể dùng tâm vi tế chấp những lý thiên lệch tà ngoại, nếu không biết ngăn đón tâm ấy, trừ diệt hư vọng thì sinh lòng tham trước, mà đã tham trước thì chấp đó là thật. Ngược lại, nếu biết là hư giả không thật, thì những phiền não, ái kiến không sinh, ?o? la? th??c hành phép Chỉ. Nếu đã áp dụng phép Chỉ nhưng tâm vẫn còn vướng mắc những ái kiến không thôi, thì nên thực hành phép Quán, quán cái tâm vi tế trong định, nếu không thấy cái gì là tâm vi tế trong định thì không chấp trước những kiến chấp trong định. Không chấp trước những kiến chấp torng định đó thì ái kiến dứt sạch, đó là thực hành phép Quán.

Phương pháp tu tập Chỉ Quán trong lúc này cũng như trước kia, chỉ có khác là tâm vi tế vướng mắc những kiến chấp trong định mà thôi.

Phương pháp thứ năm:

Thực hành Chỉ Quán để cân bằng Định, Tuệ.

Hành giả trong lúc tọa thiền, hoặc nhân thực hiện phép Chỉ, hoặc nhân thực hiện phép Quán mà vào thiền định, tuy được vào thiền định mà không có quán tuệ thì chỉ là si định, không đoạn trừ kiết sử. Lúc bấy giờ cần áp dụng pháp quán để cho định tuệ cân bằng thì mới đoạn được kiết sử, chứng các pháp môn. Hành giả trong lúc tọa thiê?n, nhân th??c hiện pháp quán mà tâm được khai ngộ trí tuệ rõ ràng; do đó không thể cắt ly sinh tử. Lúc bấy giờ nên áp dụng phép Chỉ, do thực hành phép Chỉ thì sẽ được định tâm, như ngọn đèn trong phòng kín phá trừ được bóng tối, soi tỏ được các vật. Đó là pháp môn Chỉ Quán làm cho Định Tuệ cân bằng.

Hành giả trong lúc toạ thiền, khéo dùng Năm phương pháp Chỉ Quán trên đây. Lúc áp dụng Chỉ, lúc áp dụng Quán, hợp với hòan cảnh, nên biết rằng người đó đã khéo tu Phật Pháp, mà đã khéo tu Phật Pháp thì quyết không bỏ luống một đời.

2. Theo duyên đối cảnh mà thực hành chỉ quán:

Theo duyên là theo cái duyên của sáu việc: đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc và nói năng. Đối cảnh là đối với sáu cảnh trần: sắc, thinh,hương, vị, xúc và pháp. Trong mười hai việc đó, hành giả đều có thể theo duyên, đối cảnh mà thực hành Chỉ Quán.

Theo duyên gồm có sáu việc:

a) Đi - trong lúc đi, hành giả nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì mà muốn đi? Nếu vì bị phiền não sai khiến hoặc vì những việc bất thiệnvô ký thì không nên đi. Ngược lại, nếu vì việc thiện, có lợi ích cho người như các pháp sự thì nên đi. Nếu trong lúc đi, hành giả nhận biết nhân có đi mà có tất cả các pháp trong lúc đi đều không thể nắm giữ được, thì vọng niệm dừng nghĩ, đó là hành pháp Chỉ. Nếu trong lúc đi khởi niệm rằng, do tâm làm tho thân thể cử động nên có bước tới, gọi đó là đi, nhân cái đi ấy mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm đi, không thấy có tướng mạo gì, quán người đi, các việc đi và tất cả các pháp rốt ráo đều không tịch, đó là thực hành pháp Quán.

c)Đứng - trong lúc đứng, nên khởi niệm rằng: ta nay vì việc gì màmuốn đứng? Nếu vì bị các phiền não sai khiến, hoặc vì các việc bất thiện, vô ký thì không nên đứng. Nếu vì những việc thiệnlợi ích thì nên đứng. Nếu trong lúc đứng, biết được nhân có đứng mà có tất cả các pháp thiê?n a?c, ro? biê?t ca?i tâm ???ng, va? tâ?t ca? ca?c pha?p trong lúc đứng đều không thể nắm giữ được, thì vọng niệm dừng nghỉ, đó là hành pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì nên khởi niệm rằng: do tâm dừng cái thân lại nên gọi là đứng, nhân có đứng mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm đứng, không thấy tướng mạo, cho đến người đứng, việc đứng tất cả các pháp đều rốt ráo không tịch, đó là thực hành pháp Quán.

c) Nằm - trong lúc nằm, thì nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì mà muốn nằm? Nếu vì những việc bất thiện như phóng dật.. thì không nên nằm, nếu vì điều hòa thân tứ đại thì nên nằm như Sư tử vương. Nếu trong lúc nằm, nhận biết nhân có nằm nên có tất cả các pháp thiện ác và sự thật tất cả các pháp đều không có tự tánh, không thể nắm giữ được, thì vọng niệm không sanh khởi, đó là thực hành pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì nên nghĩ rằng, do sự mệt mỏi nên hóa tối tăm, buông lung sáu tình, do đó mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm nằm, không thấy chướng ngại, cho đến tất cả các pháp thảy đều rỗng không, vắng lặng, đó là thực hành pháp Quán.

d) Ngồi - trong lúc ngồi, nên khởi niệm rằng: ta nay vì việc gì mà muốn ngồi? Nếu vì các phiền não, các việc bất thiện, vô ký thì không nên ngồi, nếu vì việc thiệnlợi ích thì nên ngồi. Trong lúc ngồi, nếu nhận biết nhân có ngồi mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi rõ biết cả các pháp đều giả dối, không thật, thì vọng niệm không sanh, đó là áp dụng pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì nên nghĩ rằng, do tâm mới có ngồi, mới có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm ngồi, không thấy tướng mạo, cho đến quán tất cả các pháp đều rốt ráo vắng lặng, đó là thực hành Quán.

e) Làm việc - trong lúc làm việc cũng nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì mà muốn làm việc? Nếu vì những việc bất thiện, vô lý thì không nên làm, nếu vì những việc thiện, có lợi ích thì nên làm. Trong lúc làm mà nhận biết được nhân có làm nên có tất cả các pháp thiện ác, sự thật không nắm giữ được một pháp nào thì vọng niệm không sanh, đó là thực hành pháp Chỉ. Còn pháp quán thì nên nghĩ rằng, do tâm vận động cái thân làm ra các việc, do đó có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm làm việc, không thấy tướng mạo, cho đến các pháp đều rốt ráo rỗng không, vắng lặng, đó là thực hành Quán.

g) Nói - trong lúc nói thì nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì mà muốn nói? Nếu vì phiền não sai khiến hay để bàn luận những việc bất thiện, vô ký thì không nên nói. Nếu vì những việc lành, có lợi ích thì nên nói. Nếu trong lúc nói nhận biết nhân có nói nên có tất cả các pháp thiện ác, rõ biết tâm nói và tất cả các pháp thiện ác, phiền não trong lúc nói, đều là hư huyễn không thể nắm giữ được thì vọng niệm dừng nghỉ, đó là thực hành pháp Chỉ. Còn phép quán thì khởi niệm rằng: do tâm cổ động hơi thở, chạm đến yết hầu, môi, lưỡi, răng, hàm. nên phát ra tiếng nói và nhân có tiếng nói, nên có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm nói, không thấy tướng mạo, cho đến người nói và tất cả các pháp trong lúc nói đều rốt ráo, vắng lặng, ?o? la? th??c hành pháp Quán.

Sáu phép Chỉ Quán nầy đều theo Duyên mà dùng, mỗi mỗi đều có năm ý tu tập như khi tọa thiền thực hành Chỉ Quán.

Còn sáu phép sau đây là đối với Lục trầnáp dụng Chỉ Quán, gọi là Đối cảnh.

Đối cảnh gồm có sáu trần:

a) Sắc - lúc con mắt thấy sắc, tùy thấy sắc gì xem đó như bóng trăng dưới nước, không chắc thật. Nếu thấy những sắc vừa lòng, không sinh tham ái, thấy những sắc trái ý không khởi tức giận, thấy các sắc bình thường không khởi vô minh, vọng tưởng thì gọi là Chỉ. Khi nghĩ rằng tất cả các tướng thấy được đều rỗng không, vắng lặng, bởi lẽ trong các thức, căn, trần, hư không, ánh sáng kia không có cái gì có thể thấy và có thể phân biệt, chỉ do nhân duyên hòa hợp sinh ra nhãn thức cho đến ý thức nên mới phân biệt các thứ sắc trần, do đó mà có các pháp thiện ác. Rồi trở lại quán tâm biết sắc, không thấy tướng, cho đến các pháp đều rỗng không, vắng lặng, thế gọi là Quán.

b) Thinh - trong lúc tai nghe tiếng, nếu nghe tiếng gì nhận biết cũng như tiếng vang, hư giả không thật, nghe tiếng vừa lòng không khởi lòng tham, nghe tiếng trái ý không sinh lòng giận, nghe tiếng bình thường không đem tâm phân biệt, thì gọi là Chỉ. Nếu phát khởi niệm rằng, tất cả các tiếng đều rỗng không, chẳng có gì, chỉ do căn trần hòa hợp sinh ra nhĩ thức cho đến ý thức, mới có phân biệt, nhân đó nên có các pháp thiện ác.. Đoạn trở lại quán cái tâm nghe tiếng, không thấy tướng mạo, và quán tất cả các pháp rốt ráo không tịch, thế gọi là Quán.

c). Hương - trong lúc mũi ngửi mùi, nếu biết gì và nhận thấygiả dối không thật, mùi vừa lòng không sanh chấp trước, mùi trái ý không khởi giận hờn, mùi bình thường không sinh tâm phân biệt, thì gọi là Chỉ. Nếu phát khởi niệm rằng, mũi ta ngửi đây là hư giả, không có chân thật, chỉ do căn trần hòa hợp sinh ra tỉ thức cho đến ý thức, nên giả dối phân biệt có các mùi, do đó mà có tất cả các pháp thiện ác, phiền não. Rồi trở lại quán cái tâm ngửi mùi, không thấy tướng và biết được việc ngửi mùi cũng như tất cả các pháp rốt ráo không tịch, thế là Quán.

d)Vị - trong lúc lưỡi nếm vị, nhậnbiết các vị cũng như những vị trong chiêm bao, nếm vị ngon không tham trước, vị dở không chê bai, vị bình thường không khởi vọng tưởng phân biệt, thế gọi là Chỉ. Khi lưỡi nếm vị, phát khởi niệm rằng: cái vị ta nếm đây, sự thật vốn không có gì, vì sao vậy? Vì các vị tự nó không có phân biệt, và ý thức giả dối phân biệt mới thành có vị, nhân đó mà có tất cả các pháp thiện ác, phiền não, rồi trở lại quán cái thức phân biệt các vị, không thấy tướng mạo, cho đến người biết vị và tất cả các pháp đều rốt ráo không tịch, thế gọi là Quán.

e) Xúc - trong lúc thân xúc với trần, nhận biết sự cảm xúc như huyễn, như hóa, không có chân thật, gặp cảm xúc vừa lòng, không khởi tham trước, cảm xúc trái ý không sanh sân hận, cảm xúc bình thường không khởi vọng tưởng phân biệt, thì gọi là Chỉ. Còn nếu khởi niệm rằng: những pháp nhẹ, nặng, lạnh, nóng, rít, trơn... thì gọi là xúc, ngoài đầu, mình, tứ chi thì gọi là thân. Xúc vốn hư giả, thân cũng không thật, chỉ do nhân duyên hòa hợp sinh ra thân thức, rồi ý thức, nên có nhớ tưởng phân biệt các thứ xúc trần, gọi là lãnh thọ xúc trần. Rồi trở lại quán cái tâm biết xúc, không thấy có tướng mạo, cho đến tất cả các pháp đều rỗng không vắng lặng, thì gọi là Quán.

g) Pháp - trong lúc ý thức phân biệt pháp trần, thì phép Chỉ Quán được áp dụng như trong lúc toạ thiền đã nói ở trước, không có gì khác.
 
 

Tóm lại, tu tập Chỉ Quán đối với sáu trần thì tùy ýsử dụng các phương pháp, mỗi mỗi đều đầy đủ năm ý như đã nói ở trước kia. Nếu hành giả biết áp dụng Chỉ Quán trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, thấy, nghe hay biết, thì nên biết rằng người đó chân thật tu hành đạo lý Đại thừa.

Trong Kinh Đại phâ?m, Phật bảo ông Tu Bồ Đề rằng: Nếu Bồ Tát khi đi biết đi, khi ngồi biết ngồi, cho đến khi mặc áo luôn luôn nhất tâm ra vào thiền định, thì nên biết người đó tu pháp Đại thừa". Người biết tu hành như thế, thì trong tất cả các nơi đều tu hành Đại thừa, thật là tối thắng, tối thượng trong thế gian, không có gì so sánh được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49712)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34611)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33429)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43900)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57024)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47537)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39411)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52908)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36583)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32228)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40433)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43460)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31436)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36160)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28680)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29211)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31864)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28794)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29109)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60965)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39717)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26638)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29638)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37266)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28272)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28880)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26387)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27153)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26175)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27791)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30450)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33257)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30054)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25474)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21829)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51270)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26705)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28600)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24338)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31906)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30171)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27677)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35405)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27427)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29991)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31740)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22991)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24167)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23006)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant