Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15543)
Kinh Thi Ca La Việt Lạy Sáu Phương


KINH THI CA LA VIỆT LẠY SÁU PHƯƠNG


Đại chánh tân tu số 0016, xem nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Sa môn An Thế Cao (đời Hậu Hán)

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o --- 

  

Phật ở trong núi Kê thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ, có con của ông trưởng giả tên là Thi Ca La Việt, sáng sớm dậy, chải đầu tắm rửa, mặc áo đẹp, hướng về phương Ðông lạy bốn lạy, phương Nam lạy bốn lạy, phương Tây lạy bốn lạy, phương Bắc lạy bốn lạy, ngẩng lên trời lạy bốn lạy, cúi xuống đất lạy bốn lạy. Phật đi vào thành khất thực, từ xa trông thấy như vậy, Ngài liền đi đến nhà con ông trưởng giả để hỏi lý do:

–Tại sao lạy sáu phương? Việc này tương ứng với pháp gì?

Thi Ca La Việt thưa:

–Khi cha con còn sống dạy con lạy sáu phương. Con chẳng biết tương ứng với pháp gì. Nay cha con đã mất, con không dám trái lệnh.

Phật dạy:

–Cha ngươi dạy ngươi lạy sáu phương không phải dùng thân lễ bái.

Thi Ca La Việt liền quỳ xuống bạch Phật:

–Cúi mong Phật giải thích ý nghĩa của sự lạy sáu phương này cho con.

Phật dạy:

–Hãy lắng nghe và ghi nhớ. Trưởng giả là người thông minh trí tuệ hay trì bốn giới khôngvi phạm. Cho nên đời này được mọi người kính nể, đời sau được sanh lên trời:

¯ Một là không giết hại các quần sanh;

¯ Hai là không trộm cắp;

¯ Ba là không lấy vợ người;

¯ Bốn là không nói dối, nói hai lưỡi, tâm dục, tham dâm, sân hận, ngu si, phải tự kiềm chế đừng có nghe theo.

Nếu không tự kiềm chế bốn sự việc này thì tiếng xấu ngày một tăng, như mặt trăng đã lặn, ánh sáng thành tối tăm. Còn ai tự kiềm chế được việc ác này thì như mặt trăng lúc mới mọc, ánh sáng càng lúc càng tỏ, cho đến ngày rằm là lúc mặt trăng tròn đầy nhất.

Phật dạy:

–Lại có sáu việc làm cho tiền tài mỗi ngày một hao giảm:

¯ Một là thích uống rượu;

¯ Hai là thích cờ bạc;

¯ Ba là thích ngủ sớm dậy trễ;

¯ Bốn là thích mời khách và cũng muốn được người ta mời lại;

¯ Năm là muốn kết thân cùng với ác tri thức;

¯ Sáu là kiêu mạn khinh người.

Phạm bốn việc ác ở trên và lại làm sáu việc này sẽ phương hại đến hạnh lành, cũng như không ích lợi trong vấn đề sinh kế, khiến cho tiền bạc ngày một hao giảm, thì việc lễ bái sáu phương có ích lợi gì.

Phật dạy:

–Ác tri thức có bốn hạng:

¯ Một là bên trong có tâm oán thù, bên ngoài giả làm tri thức;

¯ Hai là đối với người trước mặt thì nói tốt sau lưng thì nói xấu;

¯ Ba là khi bạn có việc cần cấp, trước mặt bạn thì tỏ ra sầu khổ, sau lưng thì ấp ủ vui mừng;

¯ Bốn là bên ngoài như thân lắm, nhưng bên trong lại mưu oán.

–Thiện tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là bên ngoài như oan gia, bên trong lại có lòng nhân hậu;

¯ Hai là trước mặt người thì thẳng thắn can ngăn, bên ngoài thì đề cao việc tốt của người;

¯ Ba là gặp khi bệnh hoạn, kẻ quan quyền làm cho bạn lo âu sợ sệt thì tìm cách giúp đỡ hóa giải;

¯ Bốn là thấy bạn nghèo túng cũng không bỏ rơi, thường nghĩ cách tìm phương tiện muốn cho được giàu có.

–Ác tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là khó can gián, khó dạy dỗ làm điều thiện, cùng kẻ ác làm thân;

¯ Hai là dù có dạy bảo cũng không thích nghe vì làm bạn với kẻ uống rượu cho nên thích hợp với người nghiện rượu;

¯ Ba là dù có dạy bảo thì bảo thủ, lại còn gây nhiều chuyện;

¯ Bốn là dạy bảo làm bạn với kẻ hiền nhưng lại quen thân với bạn bè cờ bạc.

–Thiện tri thức cũng có bốn hạng:

¯ Một là thấy người bần cùng đói rách thì giúp cho sinh sống;

¯ Hai là không tranh hơn thua với người;

¯ Ba là thường hay thăm viếng;

¯ Bốn là đi đứng luôn luôn tưởng nhớ.

–Thiện tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bị quan lại bắt bớ thì đem về che giấu, chờ sau sẽ giải quyết;

¯ Hai là có tật bệnh, ốm đau thì đem về nuôi dưỡng, chăm sóc;

¯ Ba là nhận biết bạn có sự chết chóc thì lo việc chôn cất;

¯ Bốn là nếu biết bạn đã chết, lại nghĩ tưởng đến gia đình bạn.

–Thiện tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bạn muốn tranh giành đấu đá thì ngăn cản;

¯ Hai là bạn muốn theo kẻ ác tri thức thì khuyên can đừng theo;

¯ Ba là bạn không muốn làm ăn thì khuyên bảo lo làm ăn;

¯ Bốn là bạn không thích theo đạo pháp thì dạy bảo làm cho có niềm tin, vui vẻ.

–Ác tri thức lại có bốn hạng:

¯ Một là bị xâm phạm ít mà sân hận nhiều;

¯ Hai là khi có việc gấp rút nhờ cậy thì không chịu làm;

¯ Ba là thấy người khi có việc nguy cấp thì bỏ trốn;

¯ Bốn là thấy người chết chóc thì bỏ đi không quan tâm.

Phật dạy:

–Hãy chọn người tốt để theo, kẻ ác để tránh. Ta nhờ làm bạn với thiện tri thức mà tự mình được thành Phật.

Phật dạy:

–Lạy ở phương Ðông, đó là:

Con thờ cha mẹ có năm việc:

¯ Một là phải nhớ lo làm ăn;

¯ Hai là phải dậy sớm để sai bảo người giúp việc đúng giờ cơm nước;

¯ Ba là đừng để cha mẹ lo âu;

¯ Bốn là phải nghĩ đến công ơn của cha mẹ;

¯ Năm là cha mẹ bệnh tật thì phải lo lắng tìm thầy thuốc trị liệu.

Cha mẹ đối với con cũng có năm việc:

¯ Một là phải nhớ khiến cho con bỏ ác theo thiện;

¯ Hai là dạy cho con chăm lo học hành;

¯ Ba là dạy cho con trì kinh giữ giới;

¯ Bốn là phải biết lo dựng vợ gả chồng cho con;

¯ Năm là trong nhà có của cải gì phải để cho con.

–Lạy ở phương Nam, đó là:

Ðệ tử thờ thầy, có năm việc:

¯ Một là phải cung kính tán thán;

¯ Hai là phải nhớ ơn thầy;

¯ Ba là phải nghe theo lời thầy dạy;

¯ Bốn là nhớ nghĩ không nhàm chán;

¯ Năm là nên hết lòng theo và khen ngợi thầy.

Thầy dạy đệ tử cũng có năm việc:

¯ Một là phải làm cho mau hiểu biết;

¯ Hai là hãy làm cho đệ tử mình hơn đệ tử người khác;

¯ Ba là muốn làm cho điều đã biết nhớ mãi không quên;

¯ Bốn là các hoài nghi đều giảng giải;

¯ Năm là muốn khiến đệ tử trí tuệ hơn thầy.

–Lạy ở phương Tây, đó là:

Vợ thờ chồng có năm việc:

¯ Một là chồng đi đâu về phải đứng dậy nghênh tiếp;

¯ Hai là khi chồng đi khỏi phải lo mọi việc nấu nướng, quét dọn chờ chồng về;

¯ Ba là không được có lòng dâm dục với người khác, chồng có trách mắng cũng không được có thái độ trách mắng lại;

¯ Bốn là hãy làm theo lời chồng răn dạy, có nhặt được vật gì cũng không được che giấu;

¯ Năm là khi chồng ngủ nghỉ, phải lo sắp xếp xong rồi mới ngủ.

Chồng đối với vợ cũng có năm điều:

¯ Một là đi đâu phải cho vợ biết;

¯ Hai là việc ăn uống đúng giờ, cung cấp áo quần cho vợ;

¯ Ba là phải cung cấp vàng bạc châu báu;

¯ Bốn là những vật ở trong nhà nhiều ít đều phải giao phó cho vợ;

¯ Năm là không được ngoại tình, bằng cách nuôi dưỡng, hầu hạ, chuyển tài sản.

–Lạy phương Bắc là mình đối với người thân thuộc bằng hữu có năm việc:

¯ Một là thấy làm việc ác thì riêng đến chỗ vắng mà can gián, khuyên ngăn;

¯ Hai là thấy việc nguy cấp dù rất nhỏ cũng mau chạy đến cứu giúp;

¯ Ba là có điều nói riêng, không được nói cho người khác nghe;

¯ Bốn là phải kính mến khen ngợi nhau;

¯ Năm là có vật tốt dù nhiều dù ít cũng nên phân chia cho nhau.

–Lạy dưới đất là:

Chủ đối với người giúp việc, có năm việc:

¯ Một là phải đúng giờ cho ăn uống và cho quần áo;

¯ Hai là khi bị bệnh hoạn phải gọi thầy thuốc đến điều trị;

¯ Ba là không được đánh đập;

¯ Bốn là họ có của riêng thì không được chiếm đoạt;

¯ Năm là những vật phân chia phải phân chia đồng đều.

Tôi tớ đối với chủ cũng có năm việc:

¯ Một là phải lo dậy sớm, đừng để chủ nhà gọi;

¯ Hai là khi làm việc phải hết lòng;

¯ Ba là phải thương tiếc đồ vật của chủ, không được vứt bỏ cho người khác;

¯ Bốn là chủ nhà đi về phải đưa rước;

¯ Năm là phải khen ngợi điều hay, không được nói điều xấu của chủ.

–Hướng lên trời lễ bái là:

Con người phụng sự các bậc Sa môn, Ðạo sĩ, cần làm năm việc:

¯ Một là hướng đến với thiện tâm;

¯ Hai là chọn lời hay mà nói;

¯ Ba là lấy thân cung kính;

¯ Bốn là phải quyến luyến hâm mộ;

¯ Năm là Sa môn, Ðạo sĩ là kẻ thiện trong loài người, phải cung kính, thờ phụng, thưa hỏi về phương cách để thoát khỏi nổi khổ nơi cuộc đời.

Sa môn, Ðạo sĩ có sáu điều nhớ nghĩ đến phàm nhân:

¯ Một là dạy họ bố thí, không được tham lam keo kiệt;

¯ Hai là dạy cho họ trì giới, không được phạm sắc dục;

¯ Ba là dạy cho họ nhẫn nhục, không được giận hờn;

¯ Bốn là dạy cho họ tinh tiến, không được kiêu mạn, lười biếng;

¯ Năm là dạy cho họ nhất tâm, không được buông lung;

¯ Sáu là dạy cho họ sự hiểu biết, trí tuệ không được ngu si.

Sa môn, Ðạo sĩ dạy người bỏ ác làm lành, khai thị con đường chánh đạo, ơn ấy lớn hơn cha mẹ. Hãy làm như vậy, xem như lúc cha ngươi còn sống dạy ngươi lạy sáu phương, lo gì mà không phú quý.

Thi Ca La Việt liền thọ năm giới, làm lễ lui ra.

Phật nói bài kệ:

Gà gáy cần dậy sớm

Mặc y phục xuống đường

Súc miệng để tâm tịnh

Hai tay dâng hương hoa.

Phật cao hơn chư Thiên

Quỉ thần không bì kịp

Cúi đầu nhiễu tháp chùa

Vòng tay lạy mười phương.

Hiền giả không tinh tấn

Giống như cây không rễ

Rễ đứt cành lá khô

Khi nào mới liền được.

Người hái hoa giữa ngày

Hoa tươi được bao lâu

Phóng tâm tự buông ý

Mạng qua rồi nói gì.

Người phải nghĩ vô thường

Nó đến không hẹn trước

Phạm lỗi không tự biết

Mạng qua vì tự khinh.

Nay phải vào Nê lê

Khi nào mới ra được

Hiền giả nghe lời Phật

Trì giới chớ có nghi.

Phật như cây hoa tốt

Ai mà chẳng mến yêu

Nơi nơi nghe tiếng Ngài

Tất cả đều hoan hỷ.

Khi ta được quả Phật

Mong được như Pháp vương

Vượt qua đường sanh tử

Tất cả được giải thoát.

Giới đức mới cậy nhờ

Phước báo thường theo ta

Pháp thiện là người lớn

Trọn xa ba nẻo ác.

Giới trừ hết lo sợ

Phước đức ba cõi quý

Quỷ thầnđộc hại

Không phạm người có giới.

Ðọa thế tục khổ đau

Mạng nhanh như điện chớp

Già, bệnh, chết đến ngay

Chẳng kể là hào quý.

Chẳng ai để nương tựa

Không chỗ nào trốn được

Phước trời còn phải hết

Mạng người há dài lâu.

Ở nhà cửa cha mẹ

Thí như người khách trọ

Mạng trước thọ đã hết

Bỏ cũ thọ thân mới.

Tất cả do hành động

Xoay vần như bánh xe

Khởi diệt theo tội phước

Sanh tử mười hai nhân.

Hiện thân không thác loạn

Tế độ khắp mọi người

Thương chúng rơi đường tà

Trôi giạt nơi vực thẳm.

Siêng năng dùng sáu độ

Tu hành đạt như nhiên

Cho nên cúi đầu lạy

Qui mạng “Thiên Trung Thiên”.

Thân người đã khó được

Ðược thân lại tham dục

Ý thức đối tham dâm

Thọ, tưởng không nhàm chán.

Dự bịđời sau

Hoan hỷ đến địa ngục

Sáu tình đã đầy đủ

Tự mình chịu khổ đau.

Nhất thiết phải chánh tâm

Ba đời thần thức tốt

Không tham đắm tám nạn

Tùy hạnh sanh mười phương.

Sanh đâu cũng tinh tấn

Sáu độ là cây cầu

Huệ rộng lớn khuyên răn

Tất cả nhờ thần quang (Phật ). 

Phật nói kinh THI CA LA VIỆT LẠY SÁU PHƯƠNG

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28948)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20679)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19412)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30480)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36414)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33198)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20966)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25252)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25784)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18551)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25132)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23759)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28921)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20851)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31443)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25538)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29713)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22511)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25706)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25731)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40591)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22439)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22082)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16955)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23279)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24301)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41086)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18973)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20470)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38107)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23987)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29171)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60129)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27595)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68711)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24473)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22676)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26348)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26521)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20809)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20046)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27542)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46407)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53569)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23591)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25555)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29245)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188881)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant