Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vua Tần Bà Sa La

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12385)
Kinh Vua Tần Bà Sa La


PHẬT NÓI KINH VUA TẦN BÀ SA LA


Đại Chánh Tân Tu số 0041 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Minh giáo Ðại sư Pháp Hiền.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong thành Vương Xá cùng đông đủ chúng đại Bí sô đều là những bậc A La Hán kỳ cựu trong Phật pháp, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đã bỏ gánh nặng, tự mình đã được lợi lạc, đã hết các kiết sử, chứng được giải thoát. Chúng như vậy cả thảy một ngàn người.

Bấy giờ đức Thế Tôn khởi lên ý nghĩ: “Nay ta hãy đến chỗ Linh Tháp, trong núi Trượng Lâm”. Nghĩ như vậy xong, Ngài cùng chúng Bí sô đồng đến chỗ ấy, đến xong liền an cư tại đó.

Bấy giờ vua Tần Bà Sa La, nước Ma Dà Ðà nghe đức Phật Thế Tôn cùng đông đủ một ngàn người là bậc A La Hán kỳ cựu đi đến Linh Tháp, núi Trượng Lâm. Khi ấy vua suy nghĩ, muốn đến đó để nghe pháp. Vua liền ra lệnh chuẩn bị xe cộ. Khác với lúc bình thường, những xe đi theo có đến một vạn hai ngàn chiếc, một vạn tám ngàn cái giường trang điểm ngọc báu, tám thứ âm nhạc, bốn loại binh chủng dẫn đầu, theo sau quyến thuộc, quan liêu phò tá vây quanh mà đi.

Khi ấy vua ra khỏi thành, đến núi Trượng Lâm vào chỗ đức Phật để thân cận cúng dường. Lại có bà la môn, trưởng giả... cũng đi theo vua để đến chỗ đức Phật.

Bấy giờ đức Thế Tôn thấy nhà vua đi đến, Ngài thị hiện năm tướng: đảnh đầu, tán cái lọng che, ma ni, phất trần và kiếm báu các tướng để trang nghiêm thân đức Phật.

Bấy giờ đại vương đi đến hội chúng của đức Phật rồi vứt bỏ hình tướng tự tại của bậc vua chúa, đi đến trước đức Phật, trịch vai bên phải, quỳ xuống, chắp tay hướng về đức Phật, dùng ngôn từ hay đẹp mà tán thán công đức của đức Phật, đầu mặt lạy sát đất, lạy Phật xong, nhiễu quanh ba vòng rồi đứng trước đức Phật, tự xưng tên mình, thưa đức Thế Tôn:

–Con là vua Tần Bà Sa La, vua nước Ma Dà Ðà.

Nhà vua ba lần bạch đức Phật như vậy, đức Phật ba lần đáp lại:

Vâng, đúng vậy! Ông là vua Tần Bà Sa La nước Ma Dà Ðà.

Ðức Phật lại dùng lời từ ái hỏi thăm, an ủi đức vua, mời vua ngồi xuống. Vua nghe đức Phật dạy, hoan hỷ, hớn hở, rồi ngồi xuống một bên. Quyến thuộc của vua cùng các quan hầu đều hướng về đức Phật, quỳ xuống chắp tay, cũng dùng những lời vi diệu tán thán công đức của Phật, dùng đầu mặt lạy Ngài xong rồi lui về ngồi xuống một bên. Các bà la môntrưởng giả..., có người dùng những lời tán thán, lễ bái, có người chỉ chắp tay đảnh lễ, có người từ xa nhìn đức Phật một cách im lặng. Các chúng như vậy đều ngồi xuống một bên.

Bấy giờ các bà la môn, trưởng giả ở trong hội chúng bỗng thấy Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là bậc kỳ cực đứng hầu một bên của đức Phật, họ bèn nghĩ như vầy: “Than ôi, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là bậc kỳ cựu, lại ở chỗ Ðại sa môn để tu hành phạm hạnh”.

Ðức Thế Tôn biết các bà la môntrưởng giả... ấy trong lòng sanh ra ý niệm nghi ngờ, cho nên Ngài liền nói bài kệ hỏi tôn giả Ca Diếp rằng:

Này Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp,

Ngày xưa thờ lửa không gián đoạn

Thấy lợi gì và được pháp gì?

Hãy vì ta mau nói nghĩa này!

Tôn giả Ca Diếp đáp:

Mùi vị ăn uống của thế gian

Cho đến lục dục người ưa thích

Con thấy lợi này nên chí cầu

Cho nên thờ lửa không gián đoạn.

Ðức Phật hỏi:

Tại sao tham đắm việc dục lạc?

Cho đến tham đắm mùi ăn uống

Tâm yêu thích thiên thượng, nhân gian

Vì nghĩa này, mau nói ta nghe.

Tôn giả Ca Diếp đáp:

Con vì câu “Tối thượng tịch tịnh”

Vì không hiểu nên mới thối lui

Ðam mê ngũ dục, không như lý

Cho nên thờ lửa không gián đoạn.

Vi đà thờ lửa, chứng giải thoát

Chúng sanh do đây tâm mê hoặc

Kẻ mù khác đâu người đã chết

Ðánh mất điều tối thượng tịch tịnh.

Nay con thấy rõ pháp vô vi

Tối thượng sư, Ðại Long khéo nói

Bậc Năng nhân vì lợi ích lớn

Thế Tôn xuất hiện đại tinh tấn.

Ðức Phật lại bảo: “Này Ca Diếp, ngươi khéo đến, khéo trụ, không có các tà niệm, khéo có thể phân biệt được pháp tối thượng. Này Ca Diếp, nay ngươi hãy nên khéo léo hóa độ chúng hội này”.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp vâng theo lời đức Phật bảo, liền nhập Tam ma địa, hiện đại thần thông, ở trong chúng hội mà biến mất, xuất hiện trong hư không phương Ðông, hiện bốn thứ oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến hiện ra Hỏa tam muội, ở trong hỏa giới phóng ra vô số ánh sáng. Ðó gọi là: xanh, vàng, đỏ, trắng và pha để ca sắc (màu hỗn hợp, màu thủy tinh ...). Lại nữa, phần trên thân phóng ra nước thì phần dưới thân phóng ra lửa. Phần dưới thân phóng ra nước thì phần trên thân phóng ra lửa, lúc ẩn lúc hiện tương tục không gián đoạn. Cũng như vậy, ở trên hư không của phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng lại hiện bốn tướng oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến hiện ra Hỏa tam muội (Hỏa định), ở trong hỏa giới phóng ra vô số ánh sáng, đó gọi là: xanh, vàng, đỏ, trắng và pha lê, màu hòa... Lại ở trên thân thì phóng ra nước, dưới thân thì phóng ra lửa, phần dưới thân thì phóng ra nước, trên thân thì phóng ra lửa, lúc ẩn lúc hiện tương tục không gián đoạn.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp ở trên hư không của bốn phương hiện các thần biến xong rồi thâu nhiếp thần lực, đến trước đức Phật, chắp tay đảnh lễ, bạch đức Phật rằng:

–Ðức Thế Tôn là thầy của con, con là đại Thanh văn.

Lại thưa:

–Ðức Thế Tôn là thầy của con, con là đại Thanh văn.

Ðức Phật đáp lại tôn giả Ca Diếp:

–Ta là thầy của ngươi, ngươi là đại Thanh văn.

Ngài lại đáp:

–Ta là thầy của ngươi, ngươi là đại Thanh văn. Ngươi hãy nên trở về chỗ cũ mà ngồi.

Bấy giờ các bà la môntrưởng giả... ở trong chúng lại nghĩ như vầy: “Như vậy tôn giả Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là bậc kỳ cựu mà còn ở chỗ Phật, bậc đại Sa môn để tu hành phạm hạnh chăng?”. Ðức Phật biết ý của họ, ngài dạy vua Tần Bà Sa La:

–Này đại vương, nên biết, sắc là pháp có sanh có diệt. Biết rõ pháp này có sanh có diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại là pháp có sanh có diệt; nên đối với pháp của năm uẩn này nên biết nó đã có sanh, phải biết nó phải có diệt. Này đại vương, pháp của sắc uẩn này, nếu thiện nam tử có thể thật sự rõ biết có sanh thì liền diệt; sắc uẩn vốn là không, sắc uẩn đã không sanh tức chẳng có sanh. Sanh đã không thì diệt làm gì có? Sắc uẩn như vậy, các uẩn khác cũng giống thế. Nếu thiện nam tử hiểu rõ nó như vậy rồi liền ngộ các uẩn không sanh không diệt, không đứng không đi, liền không có ngã. Ta nói người này ở trong vô lượng A tăng kỳ kiếp là bậc chơn tịch tĩnh vậy.

Bấy giờ các bà la môntrưởng giả... nghĩ như vầy: “Do pháp gì mà có thể được rõ biết vô ngã, vô thọ, tưởng, hành, thức? Sao gọi là có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả ấy; cho đến Ma na phạ ca, chủ tể, tác giả, sanh giả, khởi giả, vô động giả, thuyết giả, phân biệt giả, tri giả. Những loại như vậy, loại nào không sanh, loại nào không diệt? Vã lại các loại ấy vì duyên cớ gì mà tạo thiện và bất thiện nghiệp để thọ quả báo?”.

Bấy giờ đức Thế Tôn biết các bà la môntrưởng giả ấy... khởi lên tâm niệm như vậy, Ngài liền bảo các Bí sô:

–Này Bí sô, chính vì kẻ ngu si, ít nghe chánh pháp, phàm phu, ngoại giáo chấp ngã tướng, cho nên đối với “vô ngã nói là ngã”. Này Bí sô, nên biết ngã vốn là vô ngã, và đối tượng của ngã cũng là vô ngã. Nhưng đối với pháp khổ nếu có tưởng sanh thì khổ uẩn liền sanh, nếu sanh tưởng diệt thì khổ uẩn liền diệt. Cùng với các hành nếu có tưởng sanh thì các hành liền sanh, nếu có tưởng diệt thì các hành liền diệt. Nhân đây, duyên đây sanh các hành pháp, do hành duyên này liền có sanh diệt. Ta đối với những vấn đề như vậy liễu tri một cách như thật về pháp sanh diệt rồi mới đem ra dạy cho tất cả chúng sanh.

Này các Bí sô, ta dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn mắt thường, thấy các chúng sanh sanh diệt, tốt xấu hoặc sang hay hèn, hoặc trên hay dưới, sanh ở cõi lành hay cõi dữ là do chúng sanh đó tạo nghiệp thiện ác mà phải thọ lấy quả báo, ta đều biết một cách như thật. Lại nữa, chúng sanh có đầy đủ ba nghiệp bất thiện nơi thân, khẩu, ý hủy báng bậc hiền thánh, khởi ra tà kiến, do tà kiến này tạo ra các tà nghiệp, làm các pháp tà. Do nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, phải đọa vào ác thú, thọ khổ trong địa ngục. Lại nữa, nếu chúng sanh có đủ ba thiện nghiệp nơi thân, khẩu, ý, không hủy báng bậc hiền thánh, khởi sanh chánh kiến. Do chánh kiến này, tạo các nghiệp lành, làm các pháp lành. Do nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi trời làm trời. Ta biết chúng sanh ấy như thật, ta thấy chúng sanh ấy như thật.

Này các Bí sô, khi ấy ta không nói: “Có ngã, có nhân, có chúng sanh, có thọ giả”. Lại có người biết các thứ ấy thì cái gì sanh, cái gì diệt? Tạo nghiệp thiện ác phải thọ quả báo. Các pháp như vậy không có tưởng ngã. Năm uẩn có ra là do có tưởng pháp, do tưởng pháp này mới sanh năm uẩn. Vã lại, do vô minh này duyên nơi hành pháp, các hành pháp sanh ra, tập pháp mới sanh, các hành pháp diệt thì tập pháp liền diệt.

Này các Bí sô, hành khổ như vậy, do nhân duyên mà có, từ nhân duyên mà diệt cho nên hành khổ liền diệt. Khổ pháp đã diệt, phi pháp đều diệt, không còn sanh trở lại nữa. Như vậy là đã tận cùng biên giới của khổ. Này Bí sô, lại làm sao để chứng diệt? Chính biên giới của khổ này là chơn tịch diệt, thì được thanh lương, đó gọi là cứu cánh. Này Bí sô, sự tịch diệt này, đó là xả tất cả các điều kiện đưa đến ái. Nếu đã hết pháp dục thì được diệt. Ðó chính là tịch diệt Niết bàn.

Bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo nhà vua:

–Này đại vương, ý vua thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

Vua đáp:

–Sắc diệt chính là pháp vô thường.

Ðức Phật lại bảo:

–Vậy (vô thường) là khổ hay không khổ?

Vua thưa:

–Bạch Thế Tôn, khi khổ đã diệt liền được không khổ. Khổ là pháp điên đảo. Pháp điên đảo này thì các Thanh văn ít biết, ít nghe mới gọi là Ngã, là đại Thanh văn, Ngã là đại trí. Vậy có nên cho rằng: “Cái này là ngã tưởng, cái kia là ngã tưởng chăng?”.

–Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn.

Ðức Phật lại bảo rằng:

–Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

Vua thưa:

–Nó là pháp hoại diệt nên vô thường.

–Vậy nó là khổ hay không khổ?

Khổ pháp do điên đảo sanh, pháp điên đảo này đó chính là khổ. Thanh văn kia vì ít biết, ít nghe nên sanh ngã tưởng, cho nên gọi ngã là đại Thanh văn, ngã là đại trí, kia là ngã tưởng?

–Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn.

Ðức Phật dạy:

–Này đại vương, đúng vậy, đúng vậy! Hãy khéo mà suy niệm như vầy: “Pháp của sắc uẩn này, hoặc ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, trung gian hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc cao hoặc thấp, hoặc gần hoặc xa, tất cả pháp kia vốn là vô hữu, vô tướng, vô ngã. Này đại vương, do chánh trí ấy nên thấy như thật.

Ðức Phật lại nói:

–Này đại vương, cho đến thọ, tưởng, hành, thức hoặc ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, trung gian hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc cao hoặc thấp, hoặc gần hoặc xa, tất cả pháp kia vốn là vô hữu, vô tướng, vô ngã. Này đại vương, do chánh trí ấy nên thấy như thật.

Bấy giờ chúng Thanh văn ở trong hội chúng... nghe pháp này rồi, biết rõ vì sắc là vô thường, cho đến thọ, tưởng, hành, thức cũng lại biết rõ để sanh tâm nhàm chán, xa lìa nên liền được giải thoát. Chứng giải thoát rồi, chánh trí hiện tiền, ta được giải thoát: “Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.

Khi ấy vua Tần Bà Sa La nghe nói pháp này xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ở trong hội lại có tám vạn thiên nhânvô số trăm ngàn bà la môn, trưởng giả cũng được xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ vua Tần Bà Sa La được pháp nhãn thanh tịnh, được chánh tri kiến, trụ nơi pháp kiên cố, xa lìa các dục lạc, lìa các khổ não, được pháp vô úy ở trong Phật pháp. Bấy giờ đại vương từ tòa đứng dậy, trịch áo vai phải, hướng về đức Phật chắp tay, tin một cách chắc thật, đảnh lễbạch Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn, con được lợi lớn, con được lợi lớn. Con xin tuyên thệ quy y Phật, Pháp và Tăng chúng, thọ giới cận sự. Kể từ hôm nay trở về sau, cho đến lúc mạng chung không sát sanh, cho đến không uống rượu ...

Lại bạch đức Phật rằng:

–Nay con tâm thành tha thiết thỉnh Phật Thế Tôn trở lại thành Vương Xá. Cúi mong đức Thế Tôn thương xót nhận lời mời của con. Con sẽ thừa sự cúng dường Thế Tôn cho hết cuộc đời này, cho đến y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, các vật thọ dụng thảy đều đầy đủ. Ðối với các chúng Bí sô con cũng cúng dường như vậy.

Bấy giờ đức Thế Tôn nhận lời mời của vua xong, im lặng. Ðại vương thấy Phật im lặng nhận lời, đầu mặt sát đất lạy đức Phật rồi lui ra. 

PHẬT NÓI KINH VUA TẦN BÀ SA LA

 --- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29379)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33279)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21760)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30642)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32300)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27124)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20613)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22245)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23982)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22864)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23203)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30407)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30074)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23125)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22318)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21782)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19252)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20142)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30898)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41504)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32715)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19116)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34011)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24965)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23680)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25310)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24994)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23821)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58685)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23204)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20888)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28153)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28907)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24589)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21422)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23843)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28606)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29401)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17637)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31013)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25328)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18954)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20130)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23945)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20154)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24820)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19398)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61815)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31131)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22112)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 19695)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant