Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại Sanh Nghĩa

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12355)
Kinh Đại Sanh Nghĩa


PHẬT NÓI KINH ÐẠI SANH NGHĨA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0052 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Nhà Tống, Thí Hộ

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại làng xóm Câu Lô cùng đông đủ chúng Bí Sô. Bấy giờ Tôn giả A Nan ở riêng một nơi, vào lúc nữa đêm, trong lòng bỗng sanh nghĩ: “Các pháp duyên sanh, nghĩa lý hết sức thâm sâu, khó mà hiểu được! Chỉ có Phật Thế Tôn đầy đủ Chánh kiến tri mới có thể tuyên thuyết được”. Nghĩ như vậy xong, đến lúc trời sáng, ra khỏi chỗ ở, đi đến chỗ đức Phật. Ðến chỗ đức Phật rồi, đầu mặt lạy dưới chân Ngài, hỏi thăm sức khoẻ xong, đứng qua một bên liền bạch đức Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con ở riêng một nơi, vào lúc nữa đêm, trong lòng bỗng suy nghĩ: “Các pháp duyên sanh hết sức thâm sâu khó hiểu”. Cúi mong đức Thế Tôn diễn giảng cho con.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng:

-Ðúng như vậy! Ðúng như vậy! Pháp duyên sanh kia hết sức thâm thâm vi diệu, khó thấy, khó hiểu, lại khó quán xét. Chỉ có các thánh giả có đầy đủ trí thiện xảo mới có thể phân biệt được, chứ không phải người ngu si mà có thể hiểu được. Vì sao vậy? Vì chúng sanh đời này, đời sau chết rồi sanh trở lại, luân hồi như vậy đều không rõ pháp nhân duyên này. A Nan nên biết, các pháp đều do nhân duyên triển chuyển cùng sanh, cho nên mới bị luân hồi không thể chấm dứt. Từ Duyên Sanh, có Lão Tử, do Sanh làm duyên nên có Lão tử, pháp sanh không có thì làm gì có Lão tử? Do đó, duyên của Sanh triển chuyển cùng sanh. Từ duyên của thủy tộc nên sanh ra loài thủy tộc, duyên của loài chim bay cầm thú nên sanh ra chim bay cầm thú, duyên của các loại nên sanh ra các loại, cho đến duyên của loài người nên sanh ra loài người. Do duyên đó cho nên tất cả chúng sanh hỗ tương nhân duyên mà được sanh khởi. A Nan nên biết, pháp sanh này là pháp sanh hư vọng, không có rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này nên có Lão tử, do đó Lão tử cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp sanh lấy gì làm duyên? Lấy pháp Hữu làm duyên, do Hữu này liền khởi ra pháp sanh, pháp Hữu nếu không thì làm gì có pháp sanh? Cho nên pháp Hữu, như trước đã nói, khiến cho các loài triển chuyển cùng sanh, không có chấm dứt. A Nan nên biết, pháp Hữu này là pháp hư vọng không có rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này khởi ra pháp Hữu, do đó pháp Hữu cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp thủ lấy gì làm duyên? Lấy pháp Ái làm duyên. Nhân có pháp Ái liền khởi sanh pháp Thủ, Pháp Ái nếu không có thì làm gì có pháp Thủ? A Nan nên biết, duyên Ái này liền sanh ra sự mong cầu. Vì duyên mong cầu liền có sở đắc, vì có sở đắc nên tâm không quyết định, nên không có nhàm chán và biết đủ; vì trong tâm không nhàm chán biết đủ nên liền sanh ra hỷ tham, vì duyên tham nên liền sanh ra ngã kiến, đã sanh ngã kiến liền có thủ trước, vì duyên thủ trước tâm liền tán loạn, do tán loạn liền sanh ra nói dối, tố tụng, đấu tranh, dao gậy đánh nhau. Do nhân duyên này liền tạo ra các nghiệp bất thiện, các nghiệp như vậy đều do tán loạn mà có sanh ra. Nếu không tán loạn, các nghiệp không sanh. Pháp tán loạn này lấy gì làm duyên? Lấy thủ trước làm duyên. Do thủ trước nên tâm mới tán loạn. Nếu không thủ trước thì làm gì có tán loạn? Pháp thủ trước này lấy gì làm duyên? Lấy ngã kiến làm duyên nên có khởi ra thủ trước. Ngã kiến nếu không có liền không có thủ trước. Pháp Ngã kiến này lấy gì làm duyên? Lấy hỷ tham làm duyên nên có ngã kiến. Hỷ tham nếu không có liền không có ngã kiến. Pháp hỷ tham này lấy gì làm duyên? Lấy nội tâm không nhàm chán tri túc làm duyên. Vì không nhàm chán tri túc liền có hỷ tham. Nếu nội tâmnhàm chán tri túc lấy gì làm duyên? Lấy không quyết định làm duyên. Vì không quyết định nên liền không nhàm chán tri túc. Tâm nếu quyết định liền sanh nhàm chán tri túc. Pháp không quyết định này lấy gì làm duyên? Lấy có sở đắc làm duyên. Vì có sở đắc nên liền không có quyết định. Nếu không sở đắc tâm liền quyết định. Pháp có sở đắc này lấy gì làm duyên? Lấy mong làm cầu duyên. Vì có mong cầu nên liền có sở đắc. Nếu không có mong cầu liền không có sở đắc. Các pháp như vậy điều do Ái và mong cầu hỗ tương làm duyên triển chuyển sanh khởi. Nên biết pháp Ái có hai loại, đo là dục áihữu ái. Do hai pháp này mà sanh ra các tội lỗi. A Nan biết, pháp Ái này là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, duyên này sanh ra pháp thủ. Do đó, pháp thủ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Ái lấy gì làm duyên? Lấy pháp thọ làm duyên. Do duyên thọ mà khởi sanh pháp Aùi. Pháp Thọ nếu không có thì làm gì có pháp Ái? A Nan nên biết, pháp Thọ này là hư vọng, nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này sanh ra pháp Ái, do đó pháp Ái này cũng không rốt ráo.

Lại nữa pháp Thọ lấy gì làm duyên? Lấy Xúc làm duyên. Do duyên Xúc khởi sanh pháp Thọ. Pháp Xúc nếu không thì làm gì có pháp Thọ? Do đó, nhãn xúc làm duyên bên trong phát sanh ra các Thọ. Ðó là lạc thọ, khổ Thọ, phi khổ lạc Thọ. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên ở bên trong sanh ra các Thọ. Tất cả các Thọ này đều do pháp Xúc lấy đó làm duyên vậy. A Nan nên biết, pháp Xúc này là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này làm duyên sanh ra pháp Thọ, cho nên pháp Thọ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Xúc lấy gì làm duyên? Lấy Lục xứ làm duyên. Do duyên Lục Xứ liền có pháp Xúc. Lục Xứ nếu không có thì làm gì có pháp Xúc? A Nan nên biết, pháp Lục xứ này là pháp hư vọng cho nên không rốt ráo

Lại nữa, Lục Xứ lấy gì làm duyên? Lấy Danh Sắc làm duyên. Do Danh Sắc nên liền sanh ra Lục Xứ. Danh Sắc nếu không có thì làm gì có Lục Xứ? Danh Sắc này Sắc phápTâm pháp ... có sự tích tụ vậy, tức là danh Sắc này cùng thức pháp kia hỗ tương làm duyên, hòa hợp mà sanh ra, gọi là Danh Sắc. A Nan nên biết, pháp Danh Sắc là pháp hư vọng nên không rốt ráo. Tập này, nhân này, sanh này, duyên này nên có Lục xứ, cho nên Lục xứ cũng không rốt ráo.

Lại nữa, pháp Danh Sắc này lấy gì làm duyên? Lấy thức pháp làm duyên, do thức pháp nên có Danh Sắc. Thức pháp nếu không có thì làm gì có Danh Sắc? Thức pháp này ban đầu thọ sanh ở trong thai tạng của mẹ, nương vào Yết Lũ Lam. Thức pháp đầy đủ rồi, không có tăng giảm. Vì nhân duyên của thức nên sanh ra các Uẫn. Danh Sắc như vậy viên mãn đầy đủ. Nên biết thức này cùng Danh Sắc kia hỗ tương làm duyên mà được sanh khởi.

Lại nữa, nên biết duyên thức này đó là Danh Sắc. Cho nên thức là duyên của Danh Sắc, Danh Sắc là duyên của Thức. Do vậy mà sanh ra quả khổ, quả khổ đã sanh liền có già chết tương tục lưu chuyển. Do tập này, nhân này, sanh này, duyên này cho nên quả khổ là pháp hư vọng, nên không rốt ráo. Như vậy, do nhân này duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Xứ, Lục Xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ. Như vậy, tập lại kiền tạo ra một khối khổ uẩn lớn.

Ðức Phật bảo:

-Này A Nan, ngươi nay đã biết các ngôn ngữcon đường của ngôn ngữ, không phải ngữ ngôncon đường của không phải ngữ ngôn; đã sanh và con đường của sự đã sanh, hai loại như vậy đều không xa lìa Danh Dắc. Này A Nan, nếu hiểu như vậy tức là trụ nơi cái thấy bình đẳng. Ðó gọi là liễu đạt pháp duyên sanh. Pháp duyên sanh này là pháp căn bản của chư Phật. Là con mắt của chư Phật, đó chính là chỗ quay về của đức Phật.

Khi ấy Tôn giả A Nan tán thán rằng :

-Lành thay, bạch Thế Tôn ! ngài đã khéo nói Phật này, khiến cho chúng con và các Bí Sô đều được lợi lạc.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan rằng :

-Nay ta vì ngươi nói pháp không thọ, ngươi nên lắng lòng mà nghe và thọ ïtrì. Phải tác ý, ghi nhớ, tư duy một cách khéo léo. A Nan biết, lìa bỏ Ngã tướng đó là pháp vô thọ. Vì sao vậy? Vì pháp Ngã nếu có, pháp liền sanh. Vì nhờ hiểu rõ pháp Ngã là không thì làm gì có Thọ? Này A Nan! Pháp Ngã và pháp Thọ cả hai đều đã diệt rồi, liền không sở hữu, trụ vào cái thấy bình đẳng.

Này A Nan! Pháp thọ có ba loại. Ðó là lạc thọ, khổ thọ, phi khổ lạc thọ. Nói lạc thọ là thọ và pháp được thọ, đối với hai loại này, nếu có thể thấy rõ được đó là pháp hoại diệt, liền không có lạc thọ, cho nên không có pháp được thọ. Vì sao vậy? Nên biết lạc thọ là pháp vô thường, lạc thọ đã diệt rồi liền lìa Ngã tướng, ngã tướng đã không có, làm gì có thọ?

Lại nữa, khổ thọ, đó là người thọ và pháp được thọ, cả hai loại này nếu có thể hiểu rõ được là pháp bại hoại liền không có khổ thọ. Cho nên không có pháp sở thọ. Vì sao? Nên biết khổ thọ là pháp vô thường, khổ thọ diệt rồi liền xa lìa ngã tướng, ngã tướng đã không, làm gì có thọ?

Lại nữa, phi lạc thọ cũng lại như vậy. Sở dĩ gọi là thọ vì pháp thọ có hai loại. Nếu có thể hiểu rõ hai loại đó pháp hoại diệt, liền đối với khổ, lạc và phi khổ lạc, ba pháp bình đẳng liền không có thọ. Vì sao như vậy? Vì ba pháp thọ này đều là vô thường, rốt ráo không thật có. Thọ này đã diệt liền lìa ngã tướng, ngã tướng đã không, làm gì có thọ?

Này A Nan! Ý ngươi thế nào? Nên biết các thọ từ Tâm sanh ra, do tâm không chuyển nên bên trong không thọ, vì pháp không thật nên bên ngoài liền không có đối tượng thọ. Cho nên này A Nan, rõ biết như vậy liền an trụ nơi các thấy này rồi liền thấy rõ pháp vô thọ. Pháp vô thọ này là pháp căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ quay về của chư Phật.

Bấy giời A Nan lại tán thán rằng :

-Lành thay, bạch Thế Tôn ! ngài nói pháp này một cách khéo léo ! chúng con nghe rồi tin hiểu, thọ trì.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng :

-Nay ta nói pháp vô ngã cho ngươi nghe. Các ngươi hãy lắng nghe và hết lòng thọ trì, khéo léo tác ý, ghi nhớ và tư duy như vậy. Này A Nan! Khi đã rõ thọ là vô sở hữu liền lìa ngã kiến, lìa ngã kiến rồi liền trụ vào cái thấy bình đẳng, người đã trụ vào cái thấy này rồi thì đối với các tướng đều bình đẳng, đã rõ vô sanh nên liền được: “Sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh trở lại nữa”.

A Nan nên biết, ngã kiến không sanh, trụ vào cái thấy bình đẳng, như vậy liền được tâm khéo giải thoát, vô tri, vô kiếnvô sở đắc, lìa các suy nghĩ đối với cái được và cái không được, không có đắc cũng không vô đắc mà rõ biết rốt ráo. Rõ biết như vậy liền đối với ngữ ngôncon đường ngữ ngôn, chẳng phải ngữ ngôn và chẳng phải con đường ngữ ngôn, sự sanh và con đường của sự sanh đều hoàn toàn vô tri, vô kiến. Ðã biết rõ như vậy rồi liền lìa ngã kiến, trụ bình đẳng kiến, rõ biết như thật. Như vậy gọi là đạt được pháp vô ngã. Ðó là pháp căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ quay về của chư Phật.

Khi ấy Ngài A Nan nghe lời Phật dạy lại tán thán đức Phật rằng:

 -Lành thay, thưa Thế Tôn! Ngài đã nói pháp này một cách khéo léo. Chúng con nghe rồi tin, hiểu và thọ trì.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng;

-Ta nay vì ngươi lại tuyên thuyết, ngươi nên lắng nghe và hết sức thọ trì, tác ý một cách khéo léo, nhớ nghĩ khéo léo và tư duy khéo léo như vậy. A Nan nên biết, không có sắc tướng để được lìa các ngã chấp, biết rõ một cách như thật, đã biết rõ rồi, quán tưởng thân này là vật phá hoại, không thật, chẳng đáng yêu mến. Quán sát như vậy lìa các tướng, không sanh ngã chấp. Ngã tướng đã diệt liền rõ thân này là vật phá hoại, không thật, như vậy được trụ bình đẳng kiến. Người trụ kiến này liền đối các uẩn rõ biết đều không, ngã và các tướng làm gì có thấy?

Lại nữa, A Nan nên biết, chỗ ở của thức gồm có bảy loại, không phải chỗ ở của thức gồm có hai loại. Bảy chỗ ở của thức là:

Nếu có sắc, có chúng sanh, vô số thân, vô số tưởng, đó là chỗ ở thứ nhất của Thức.

Nếu có sắc, có chúng sanh, vô số thân mà có một tưởng, đó là trời Sơ thiền, là chỗ thứ hai của Thức.

Nếu có sắc có chúng sanh, một thân mà có vô số tưởng, gọi là trời Nhị thiền, đó là chỗ ở thứ ba của Thức.

Nếu có sắc, có chúng sanh, một thân một tưởng, gọi là trời Tam thiền. Ðó là chỗ ở thứ tư của Thức.

Nếu khôngsắc khôngchúng sanh, nhất thiết xứ kia lìa các sắc tướng, gồm một hư không, gọi là trời không vô biên xứ. Ðó là chỗ ở thứ năm của Thức.

Nếu khôngsắc khôngchúng sanh, nhất thiết xứ kìa xa lìa không tưởng, chỉ gồm một Thức, gọi là trời Thức vô biên xứ. Ðó là chỗ ở thứ sáu của Thức.

Nếu không có sắc, không có chúng sanh, Nhất thiết xứ kia lìa Thức vô biên, hoàn toàn vô sở hữu, gọi là trời Vô sở hữu xứ. Ðó là chỗ ở thứ bảy của Thức.

Này A Nan! Hai loại chẳng phải chỗ ở của Thức là:

Nếu có sắc, có chúng sanh, tức là trời Vô tưởng. Ðó chẳng phải là chỗ ở thứ nhất của Thức.

Nếu không có sắc, không có chúng sanh, đối với Nhất thiết kia, lìa Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ, tức là trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó chẳng phải là chỗ ở thứ hai của Thức.

Ðức Phật dạy:

-Này A Nan! Như vậy, có sắc có chúng sanh, vô số thân, vô số tưởng. Ðó là chỗ ở thứ nhất của Thức. Này các Bí Sô, các người nên như thật biết rõ đối với lúc đi, ngồi, nói năng thường nên xưng tán các pháp môn này. Hãy phân biệt diễn thuyết cho người khác nghe một cách rộng rãi. Như vậy cho đến chỗ ở thứ bảy của Thức và hai pháp môn không phải chỗ ở của Thức cũng lại như vậy, đối với lúc đi, lúc ngồi, lúc nói năng thường xưng dương tán thán những điều chư Phật đã dạy, sanh lòng tin thanh tịnh, như thậtliễu tri. Nếu ai liễu tri thì liền được huệ giải thoát, chứng quả A La Hán.

Lại nữa, A Nan nên biết, có tám pháp môn giải thoát, đó là:

Nếu bên trong có sắc, quán sắc bên ngoài. Ðó là giải thoát thứ nhất.

Nếu bên trong không có sắc, quán sắc bên ngoài. Ðó là giải thoát thứ hai.

Nếu thân chứng, thanh tịnh, giải thoát. Ðó là giải thoát thứ ba.

Nếu được thanh tịnh rồi, lìa các sắc tưởng, quán thấy hoàn toànhư không, không có biên giới. Quán này thành rồi, đó là không vô biên xứ giải thoát thứ tư.

Nếu lìa “hư không vô biên xứ” nên quán Thức, Thức cũng vô biên. Quán này thành rồi, thì đó là Thức vô biên xứ giải thoát thứ năm.

Nếu đã lìa Thức vô biên xứ rồi, nên quán tất cả đều không có sở hữu. Quán này thành rồi thì đó là “Vô sở hữu xứ giải thoát” thứ sáu.

Nếu lìa “Vô sở hữu xứ” rồi, nên quán “phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Quán này đã thành, đó là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát” thứ bảy.

Nếu lìa “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” này rồi, nên diệt thọ tưởng, trụ Tam ma địa (chánh định), vị ấy đã thân chứng rồi, đó là “Diệt thọ tưởng giải thoát” thứ tám.

Như vậy gọi là “Tám pháp môn giải thoát”.

Ðức Phật dạy:

-Này A Nan! Ngươi nay nên biết, trước ta đã nói bảy chỗ ở của Thức, hai chỗ không phải chỗ Thức trụTám pháp môn giải thoát. Này các Bí Sô, như ta nói các ngươi phải thật hiểu rõ, thường nên tùy hỷ xưng tán, lại nên như lý mà tu hành. Nếu ai thông đạt các pháp môn này một cách viên mãn thì được hai thứ giải thoát, chứng quả A La Hán.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kinh này xong, tôn giả A Nan và các Bí Sô đều rất hoan hỷ, tin nhận, vâng làm. 

PHẬT NÓI KINH ÐẠI SANH NGHĨA

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28234)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29372)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33271)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21755)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32274)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27106)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20612)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22241)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23970)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22853)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23192)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30051)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23120)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22312)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21777)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19240)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20136)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30887)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41497)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32702)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19115)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24961)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23673)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25302)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27752)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24989)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23815)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23192)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20876)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28901)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19202)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24580)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21415)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23821)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28597)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29393)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17633)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31009)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25315)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18945)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20119)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23935)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19034)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20148)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20028)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24814)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19394)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22552)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61805)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31125)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22102)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant