Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Tứ Thiên Vương Kinh

14 Tháng Hai 201400:00(Xem: 19794)
Phật Thuyết Tứ Thiên Vương Kinh

PHẬT THUYẾT TỨ THIÊN VƯƠNG KINH


- Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590

- Dịch Phạn sang Hán: Đời Lưu Tống, Sa-môn Trí NghiêmBảo Vân; Nguyên tác: 1 quyển [1]

- Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

 Nghe như vầy.

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật bảo các đệ tử:

-Hãy cẩn thận đối với tâm niệm của mình, không nên ưa thích sáu dục, dứt bỏ các thứ cấu nhiễm nơi trần, lấy vô cấu làm đầu, bên trong thanh tịnh, bên ngoài thì hết lòng hiếu kính, dùng bốn Tâm vô lượng để phụng dưỡng bậc sinh thành. Sáng sớm vào nơi tôn miếu làm lễ sám hối, buổi chiều đọc tụng, suy nghĩ ý nghĩa nơi diệu lý của kinh, dùng giới trọng của Phật để đối trị tâm bệnh cấu uế, nghiêm trú ở chỗ vắng lặng, tu thiền định, quán hơi thở ngược dòng đến nguồn gốc để cầu đạo giải thoát, mạng sống như ánh chớp, chỉ trong chóc lát liền diệt, ngày trai giới nên cẩn thận giữ gìn thân, miệng, ý. Ngày trai giới thì chư Thiên theo dõi việc thiện ác của con người.

Ở trên núi Tu-di, tức là cõi trời Đao-lợi thứ hai, vua cõi trời ấy là Thích Đề-hoàn Nhân, phước đức rộng lớn, cai quản bốn Thiên vương. Tứ Thiên vương ấy tức là bốn vị vua giữ bốn phương. Mỗi người canh giữ một phương, thường lấy ngày mồng tám trong tháng sai sứ đi tra xét thiên hạ, theo dõi quan sát tâm niệm, lời nói, hành động thiện ác của muôn dân, của Đế Thích, thần dân, rồng, quỷ, các loài côn trùng nhỏ bé.

Ngày mười bốn, thái tử xuống.

Ngày mười lăm, Tứ Thiên vương xuống.

Ngày hai mươi ba, sai sứ giả xuống.

Ngày hai mươi chín, thái tử lại xuống.

Ngày ba mươi, bốn Thiên vương đích thân xuống. Mặt trời, mặt trăng, năm sao lớn, hai mươi tám sao nhỏ, các chư Thiên trong đó đều theo xuống.

Bốn Thiên vương ra lệnh: Thường xuyên theo dõi việc làm tốt xấu của chúng sinh. Nếu ở những ngày này mà quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tâm thanh tịnh, giữ gìn trai giới, bố thí cho người nghèo, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đem kinh này thuyết giảng rộng, giáo hóa cho người tối tăm, hiếu thuận cha mẹ, phụng sự Tam bảo, cung kính thọ nhận pháp, thực hành bốn Tâm vô lượng, Từ bi cứu giúp các loài, phân biệt đầy đủ để thưa lại với Đế Thích. Nếu tu tập nhiều phước đức, tinh tấn không biếng nhác thì Đế Thích và ba mươi hai vị quan phụ tá thảy đều hoan hỷ.

Đế Thích ra lệnh tăng thêm tuổi thọ cho họ, sai các vị thiện thần ủng hộ những người đó, tùy theo những người ấy giữ giới nhiều hay ít. Nếu người giữ một giới thì có năm vị thần hộ trì. Người trì năm giới thì có hai mươi lăm vị thần cùng ủng hộ nhà cửa, các tai ương, âm mưu tà vạy đều bị tiêu diệt, ban đêm không có ác mộng, hàng quan lại hung bạo, giặc cướp, nạn khổ về nước, lửa, hoàn toàn không xâm hại, các thứ tai họa, quái ác được diệt trừ.

Nhờ bốn Tâm vô lượng, giữ năm giới, sáu ngày trai, giống như nước lớn diệt trừ lửa nhỏ, không có gì mà không diệt được sao? Lúc lâm chung thần thức của họ được đón rước sinh lên cõi trời, nơi cung điện bảy báu, mọi nguyện cầu đều đạt được. Nếu có người không cứu giúp mạng chúng sinh, ô trược, trộm cắp, dâm dật với vợ người, nói hai lưỡi, mắng chửi nói lời ác, nói dối ,nói thêu dệt, dùng chú thuật nguyền rủa, ganh ghét, giận dữ, ngu si, trái nghịch với đạo, bất hiếu, trái với Phật, trái Pháp, chê bai Tỳ-kheo Tăng, luận bàn lẫn lộn việc thiện ác, người thực hành như vậy, Tứ Thiên vương tâu lại với Đế Thích, chư Thiên, khiến các vị ấy không vui. Các vị thiện thần không theo ủng hộ những hạng người ấy, liền khiến cho mặt trời, mặt trăng không còn ánh sáng, các tinh tú đều lặn mất, gió mưa trái thời, nhằm răn đời để sửa đổi tu tập, cần tẩy tâm, giữ gìn thanh tịnh, thành khẩn ăn năn đối với Tam bảo, tu bốn Tâm vô lượng, phụng dưỡng cha mẹ, trung hiếu với vua, dùng tâm Từ ngăn cản mọi sự tranh chấp, thành thật không lừa dối, ngược lại những sai trái ở trước để tu tập, xả bỏ cấu uế, thành tựu đạo thanh tịnh.

Nếu có người cải bỏ tà hạnh, thành tựu đạo chân chánh thì Đế ThíchTứ Thiên vương đều hoan hỷ, mặt trăng mặt trời liền chiếu sáng, tinh tú thường xuất hiện, mưa gió hợp thời, khí độc tiêu hết, trời mưa xuống cam lộ, đất sinh ra dòng suối mát, lúa nước nhiều hương vị, ăn vào ít bệnh, sắc hoa rực rỡ, mạng sống lâu dài, đời đời xa lìa lao ngục, chết được sinh lên cõi trời, phước đức như sở nguyện, đi lại an nhiên, được mất luôn tự tại, thân có ánh sáng như mặt trời, ăn vào tự tiêu hóa, không có những lo lắng về sự dơ dáy, nơi thân, miệng trong sạch, thơm thơ. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú tức là nhà cửa, cung điện của chư Thiên. Điện, đền đài bằng bảy báu hiện ra giữa hư không theo ý của mình. Khi tuổi thọ hết được sinh vào hàng vương tộc, dung mạo đẹp đẽ, người nhìn thấy đều ưa thích, được gặp Phật, gặp pháp, cùng sống chung với Thánh tăng, nhờ vào diệu lực tu tập không còn tội lỗi, chắc chắn đạt đến Niết-bàn, mỗi người thọ trì năm giới, mười điều thiện thì ngăn chận được sáu trần và các dục, sáu ngày trai giới cũng đạt được như vậy.

Vào thời Đức Phật Câu-lưu-tần, tuổi thọ của con người đến sáu vạn năm, tánh của họ thuần thiện, cứu giúp mọi người giống như nuôi dưỡng mình, bình đẳng không hai. Đức Phật ấy qua đời, chánh pháp suy kém, dân chúng hành động không chân chánh, dần dần làm ác, tuổi thọ của họ ngày càng giảm đi, chỉ còn trăm năm.

Sau khi Đức Như Lai nhập Niết-bàn, dân chúng trái với lời dạy của Phật, không còn hiếu kính, mạng sống, tuổi thọ giảm bớt, thiện thần chẳng hộ trì, bệnh dịch quỷ ác thường hay xâm hại, các thứ tai họa xuất hiện khắp nơi, sống thì bị vào lao tù của phép nước, chết bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu làm người chắc chắn bị nghèo cùng, sinh vào hàng hạ tiện. Thiện ác luôn gắn liền thân giống như năm thứ lúa thóc tùy theo chỗ gieo trồng mà thu hoạch được hạt quả. Cũng như ban đêm chép sách, lửa tất chữ còn, thân chết, tên diệt, nhưng phước họa không hư mất.

Các ông nên thận trọng, giữ gìn thân, miệng, ý, thực hành theo năm giới mười điều thiện mới có thể đạt được đạo. Ta nay thành tựu đạo quả Phật chính là nhờ tích chứa các hạnh mà đạt được.

Các Tỳ-kheo nghe kinh này đều rất hoan hỷ, cung kính đảnh lễ Phật mà lui ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34617)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43910)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47546)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52924)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40449)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46699)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28686)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29218)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33351)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60971)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39727)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26654)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29648)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34613)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30462)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28552)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30059)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25477)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26711)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27691)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27691)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35428)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31762)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26645)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant