Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương III. Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

22 Tháng Hai 201400:00(Xem: 9259)
Chương III. Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM 

HT Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013

Chương III.
Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

Kinh Hoa Nghiêm là tên tóm gọn của Ðại Phương

Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Chữ "Ðại" trong tên kinh, không có nghĩa đối lại với tiểu. Ở đây, "Ðại" chỉ cho đại dụng hay tổng thể. Ðức Phật đắc đạo, thấy được tổng thể sự vật, hay nắm bắt được chân lý.

Chúng ta đang bước theo dấu chân Phật, tức đang hướng tới chân lý, chưa nắm bắt được chân lý, làm sao chúng ta thấy chân lý, thấy đại dụng ?

Trước tiên, chúng ta thấy chân lý qua giáo lý, mà Ðức Phật thường ví như ngón tay chỉ mặt trăng. Phật chỉ đâu chúng ta thấy đó. Thực sự chúng ta không thấy, nhưng nhờ giáo lý soi sáng, từng bước nhận ra chân lý. Hàng Thanh văn tu theo lộ trình này. Tôi cũng vậy, trải qua hàng chục năm siêng năng đọc tụng kinh điển với tất cả tấm lòng, mới thấy từng phần chân lý tương đối chính xác. Tuy chỉ thấy mặt trăng hay chân lý ở đàng xa một cách lờ mờ, chưa nắm bắt được, nhưng ít ra cũng nhận biết được nó để chúng ta đi tới.

Kế đến, chúng ta suy nghiệm lời Phật dạy để hiểu sâu xa hơn. Trước chúng ta chỉ nghe thuyết giảng hoặc đọc kinh để tưởng tươïng, hình dung ra chân lý. Nay, chúng ta hạ thủ công phu, tập trung tư tưởng, suy nghĩ thì chân lý từ từ hiện rõ nét. Ðó là cách tu của Duyên giác nỗ lực thiền quán làm vấn đề sáng ra.

Ðến giai đoạn ba, hành Bồ tát đạo vào đời trắc nghiệm 6 pháp ba la mật và 4 pháp nhiếp, biết rõ căn tánh hành nghiệp của chúng sanh. Từ đó, thay đổi nghiệp thức, hành uẩn của ta và người. Bồ tát bắt đầu nắm bánh xe tạo hóa, chuyển đổi từng phần sự vật theo ý muốn.



Quá trình tu tam thừa giáo như vậy, giúp chúng ta nắm được phương tiện trong tay mới chuyển được vật. Không trải qua ba giai đoạn này, việc tu hành không thể đạt kết quả tốt. Tùy theo phương tiệnchúng ta nắm được phần nào thì vận dụng được phần đó.

Trên lộ trình Bồ tát đạo, chúng ta khám phá đại dụng và càng làm, càng thấy nhiều điều chưa biết. Chúng ta vẫn sinh hoạt trong tổng thể, phần phá vô minh, phần chứng pháp thân. Có thể nói ở giai đoạn này, chúng ta tu sáng hơn, tự tin hơn và có thành công hơn. Tiến tu như vậy, ánh sáng trí tuệ cho ta thấy được tổng thể của sự vật, thấy được sự chi phối toàn bộ của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Ðưùc Phật trong kinh Hoa Nghiêm là Tỳ Lô Giá Na Pháp thân hay Ðại Nhựt Như Lai hằng hữu bất sanh bất diệt, nắm bắt toàn bộ tổng thể của sự vật. Ý này được kinh diễn tả là Ngài đắc đạo, khám phá ra bàn tay tạo hóa hay người thợ xây ngôi nhà và từ đó Ngài chủ động hoàn toàn vận mạng của Ngài.

Kinh Hoa Nghiêm muốn chỉ cho chúng ta lộ trình tu hành khám phá và nắm bắt được tổng thể của sự vật.

Ðại là tổng thể. Từ tổng thể phân ra thời giankhông gian. Thời gian luôn di chuyểnkhông gian luôn biến động và chúng luôn tác động lẫn nhau, cũng như chi phối tất cả sự vật. Mọi vấn đề đều phát sanh từ thời gian, không gian.

Phương là chiều đứng và quảng là chiều rộng, cộng lại là vũ trụ. Hay thời giankhông gian hợp lại tạo thành vũ trụ và sự sống muôn loài, sự vật vận hành, tức vũ trụ biến đổi, xoay vần đều không nằm ngoài thời không.

Pháp thân Phật vĩnh hằng, nhưng từ tổng thể phát sinh ra Báo thânứng hóa thân Phật có đổi khác. Thật vậy, giáo lý Phật bất biến nhưng thường tùy duyên. Trên nền tảng ấy, tổng thể hay Phật giáo muôn đời không thay đổi. Tuy nhiên, để tồn tại thích nghi, sinh hoạt từng chỗ, từng lúc có biến đổi. Nếu giữ nguyên khuôn mẫu cố định, thì phải bị loại ra ngoài cuộc sống của trời đất.

Ðại hay tổng thể bất biến, nhưng nhờ phần dụng là Báo thân linh hoạt, tức đạo đứctri thức được vận dụng thích nghi lợi lạc nên tồn tại mãi. Trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy rõ nếu giữ được hai thứ vốn quý giá là đạo đứctri thức thì ở đâu chúng ta cũng được quý trọng. Tu theo Hoa Nghiêm là tu trong tổng thể của sự vật, lấy những gì đẹp nhất của nó trang nghiêm cho ta, chứa đựng tri thứcđạo đức của nhân loại trong đầu ta, trong trái tim ta, thể hiện thành Báo thân Phật.

Chư Phật đều giống nhau ở điểm tri thứcđạo đức vẹn toàn, làm Thầy trời người, được cung kính cúng dường. Tuy nhiên, cách hành đạo của các Ngài khác nhau. Thí dụ Phật Tịnh Lưu Ly chỉ giữ tâm trong sáng và dùng tâm ấy cảm hóa người trong sáng theo. Phật Hương Tích thì dùng mùi hương cảm hóa người phát tâm tu thành Phật. Phật Di Ðà thì sử dụng phương tiện lầu các, ao thất bảo, chim nói pháp, v. v...để giáo hóa.Từ tổng thể Pháp thân hiện ra hoạt động của Báo thân trong trời đất, tùy duyên cứu độ chúng sanh bằng mọi cách, không ngừng nghỉ. Ðó là hiện hữu của Như Lai, bất độngbiến hóa lợi ích không cùng.

Tinh thần này được Phật giáo Ðại thừa triển khai thành "Dĩ bất biến ứng vạn biến", theo đó sự vật thay đổi như thế nào, ta vẫn thích nghi được, để tồn tại. Không thích nghi thì chắc chắn bị tiêu diệt, như lịch sử đã từng ghi nhận thảm họa đổ lên Phật giáo Ấn Ðộ xưa kia và ngày nay một số nước Phật giáo nguyên thủy.

Ðức Phật cũng trụ ở trạng thái bất biến, tức an trú đại thiền định ở cung trời Ðâu Suất. Từ trạng thái Phật ở thể tĩnh, Ngài khởi tâm đại bi, ứng vạn biến, chọn thành Ca Tỳ La Veä làm nơi Ðản sanh vào thời gian cách đây hơn 2500 năm, đó là hiện thân Phật Thích Ca Mâu Ni ở thể động.

Hiện hữu trên cuộc đời, Ðức Phật vận dụng đạo đứctri thức chuyển hóa mọi tư tưởngviệc làm sai lầm của hàng trí thức đương thời. Ðức Phật chỉ cho mọi người nhận ra chính họ làm chủ cuộc đời của họ, đừng dại khờ giao vận mạng cho người mà mình không hề biết rõ. Trước đó, tất cả mọi người đều lệ thuộc thần linh, nhưng nay Phật dạy ngược lại, dạy chúng ta chủ động, sử dụng ngay tri thức của ta để tự quyết định mọi thành bại của đời ta. Tu sĩ Ðại thừa nối gót theo Phật, hành đạo ở nơi nào đều sử dụng ngũ minh để giải quyết nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật cho người dân nơi đó.

Kinh Hoa Nghiêm nối kết lại những tư tưởng Ðại thừa Viên giáo, gồm có 36.000 bài kệ nói về việc làm cao quý của các Bồ tát, tiêu biểu bằng hoa. Hoa ở đây là tất cả loài hoa, không phải chỉ có hoa sen như kinh Pháp Hoa.

Bồ tát theo Hoa Nghiêm góp nhặt được tất cả hoa hay tinh ba của muôn loài. Dưới mắt Bồ tát, mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội đều tốt, quan trọng là phải thấy được điểm tốt đẹp của người và quan hệ với họ ở mặt tốt đó. Thật vậy, thể nghiệm lời Phật dạy, Tổ sư Pháp Tạng không thấy bà Võ Hậu hoàn toàn xấu ác như người ta thường chê bai. Và Ngài đã khai thác được mặt tốt, cảm hóa bà trở thaønh người bảo trợ cho việc phiên dịch kinh Hoa Nghiêm.

Chúng ta không nói cái nào hay, cái nào dở. Mỗi thứ đều có nét đẹp riêng. Tu Bồ tát đạo, ai có điều gì tốt, chúng ta học cái tốt ấy. Theo Hoa Nghiêm, chúng ta lấy tinh ba của cuộc đời, văn minh của nhân loại để trang bị cho trí năngphục vụ lợi ích cho đời, không phải chỉ sử dụng một cái duy nhất, rớt vô cục bộ.

Theo tôi, hiểu biết càng nhiều càng tốt. Triết học Ðông Tây, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, v. v... chúng ta đều am tường. Biết để sống với đời, cảm hóa người, mới hành Bồ tát đạo được và chỉ có con đường này dẫn chúng ta đến quả vị toàn giác.

Tóm lại, đề kinh Hoa Nghiêm tuy ngaén gọn, nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa, chỉ cho chúng ta thấy Ðức Phật của kinh Hoa Nghiêm là tổng thể của vũ trụ, tức Tỳ Lô Giá Na Pháp thân. Ðức Phật này chi phối muôn sự muôn vật vì Ngài đã trang nghiêm bằng chân thiện mỹ vẹn toàn, nghĩa là đạo đứctri thức Phật bao trùm muôn loài, tác động cho tất cả hữu tình vô tình chúng sanh thăng hoa trên đường thánh thiện.

Có thể nói đề kinh có vài chữ, nhưng bao hàm tất cả kinh. Vì vậy, theo tinh thần Hoa Nghiêm, tất yếu không chỉ giới hạn ở việc học ngữ ngôn văn tự, nhưng học và ứng dụng trong cuộc sống như thế nào để chúng ta xứng đáng làm Thầy, đúng như ý Phật dạy.

Thể nghiệm pháp Phật, chúng ta bieát rõ tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, năng lực của đối tượng và tùy theo đó giúp họ trưởng thành. Chúng ta tự khẳng định vai trò đạo sư của người tu sĩ, theo ta thì người được lợi lạc nhiều mặt, nương đạo đức của ta thì người trưởng dưỡng được đạo tâm, nhờ chỉ dạy của ta mà người nâng được nhận thức sáng suốt hơn, cuộc sống an lạc hơn, phát triển hơn. Không phải người theo để nuôi ta, làm tôi mọi cho ta. Ðức Phật không bao giờ đào tạo những người ăn hại.

Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, nối tiếp sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Ðức Phật, thể hiện đúng tư cách nhà truyền giáo, chúng ta hiện hữu trên cuộc đời vì lợi íchhạnh phúc cho số đông.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22306)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16027)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15039)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18968)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14454)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18638)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14435)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13596)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13558)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11826)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13266)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13671)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13945)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13256)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15028)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16167)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16462)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17605)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12882)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13720)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16399)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13138)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12777)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12923)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14183)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16489)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12384)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14392)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11041)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13201)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13171)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13010)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13516)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12742)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10239)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13975)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10242)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13711)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11977)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12987)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11663)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12686)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10803)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10950)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11904)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12773)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12623)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11333)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant